Bài Đọc ngày thứ 4 của MC
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(MC của phần I: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 26 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 3 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Phần III. Tăng già thời Phật trụ thế. Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(MC của phần I: ....(...... điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần III. Tăng già thời Phật trụ thế
Chủ biên: Sư Cô Liễu Pháp
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
______________________________
(MC của phần 2a: ....)
A. Sự thành lập Tăng hội
Bảy ngày sau khi thành Đạo, Đức Phật rời cội Bồ-đề, rời Uruvelà, hướng về phía sông Gange, ngược dòng sông, vượt qua sông mà sang phía hữu ngạn, tiếp tục đi về Baranàsi là nơi mà gần đó, tại vườn Lộc Uyển, năm vị Sa-môn nhóm Tôn giả Kodannà (Kiều-trần-như) đang tụ tập sau khi rời bỏ đức Phật vì tưởng là Ngài đã thối chí, không chịu nổi khổ hạnh mà bỏ Chánh đạo. Tại đây, hai tháng sau khi thành đạo, đức Phật đã chuyển Pháp luân đầu tiên trong thế gian này. Kodannà và bốn vị cùng tu được đức Phật thuyết giảng Chánh pháp, giáo lý chân thật, tối thượng mà gần gũi con người nhất, thiết thực, cụ thể nhất đối với con người.
Sau bài thuyết pháp đầu tiên này, Tôn giả Kiều-trần-như đắc quả Dự lưu (quả vị thứ nhất trong bốn Thánh quả) và cả năm vị Tỳ-kheo đều xin quy y. Bốn ngày liên tiếp sau đó đức Phật dạy về Vô ngã, tất cả năm vị đều đắc quả A-la-hán là quả vị tối thượng trong hàng đệ tử Phật. Ðấy là năm đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật. Ðấy là Giáo đoàn, Tăng-già Phật giáo đầu tiên, cơ sở cho Giáo hội Phật giáo sau này.
Sau đó, cũng tại vườn Lộc Uyển, Đức Phật còn giảng về Tứ Ðế cho Yasa (Da-xá), một thanh niên, con một trưởng giả ở Baranasì, bỏ nhà vượt sông Varana đến ra mắt đức Phật. Yasa đắc A-la-hán. Bốn bằng hữu nữa của Tôn giả Yasa, trong hàng trưởng giả của Baranasì là Vimàla, Subàhu, Purnajit và Gavàmpati cũng xin đến quy y, nghe Pháp Phật và đều đắc quả A-la-hán. Bấy giờ, Giáo đoàn của Phật, ngoài bậc Ðại Giác, gồm thêm mười vị A-la-hán. Cũng tại Baranasì, đức Phật độ thêm đến vài chục vị nữa, những vị này ở các nước lân cận, đều là bạn bè, thân thích của Tôn giả Yasa, hoặc của các vị A-la-hán vừa đắc quả. Khi Giáo đoàn gồm được sáu mươi vị A-la-hán, đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:
"Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và Người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự toàn hảo viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được giải thoát: những kẻ ấy sẽ hiểu pháp". (Mahàvagga I, 11 - Ðại phẩm)
(MC của phần 2b: ....)
Sứ mệnh phát triển Phật giáo, giảng pháp cứu đời, cụ thể là chủ trương thành lập Tăng đoàn đã được thể hiện rõ ràng. Dân chúng đã quen thuộc, đã để ý, đã kính trọng các vị đệ tử đức Phật. Khi các Tỳ-kheo Thánh giả đã đi khắp bốn phương để hóa độ người, đức Phật trở lại Uruvela. Ðến mé sông Niranjara (Ni-liên-thuyền), Ngài gặp Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) đang cùng năm trăm đệ tử tu tại đây. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Tôn giả đắc quả A-la-hán, liền giới thiệu hai em là Nadi Kassapa (Na-đề Ca-diếp) và Gaya Kassapa (Già-da Ca-diếp) đang lãnh đạo mỗi vị hai trăm năm mươi đệ tử đến quy y Phật. Hai vị này cùng rất nhiều đệ tử đắc A-la-hán.
Bấy giờ là năm thứ ba (mùa an cư thứ hai) sau ngày đức Phật thành đạo, đức Phật cùng đoàn đệ tử đông đảo của Ngài tiến lên phía Bắc hướng đến thành Ràjagaha (Vương Xá), thủ đô của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), trú tại một ngọn đồi gần thành.
Ðức Phật và giáo đoàn của Ngài đã chiếm được sự tín ngưỡng, ưu ái của dân chúng trong và ngoài thành Vương Xá. Vua Bimbisàra rất khâm phục, kính mộ đức Phật, xin quy y và dâng cúng rừng Veluvana (Trúc Lâm) trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tinh xá, gồm giảng đường, phòng ốc, vật dụng đủ cho đức Phật và giáo đoàn tới cả một ngàn người của Ngài. Ðây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một khởi đầu của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thang của các đoàn Sa-môn lúc bấy giờ.
Sự hình thành Ni đoàn:
Năm 504 trước Tây lịch, tức năm thứ năm sau khi Phật thành đạo, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) sắp mất, đang hấp hối. Ðức Phật vội rời Sàvatthi để trở về Kapilavatthu gặp vua cha. Bên giường bệnh, đức Phật đã thuyết Pháp và nhà vua đắc quả A-la-hán trước khi lìa trần.
Trong dịp này, bà Mahapajàpatì (Ma-ha-ba-xà-ba-đề), di mẫu của Phật, cầu xin được xuất gia, gia nhập Giáo đoàn, thành lập đoàn Tỳ-kheo ni, đức Phật dứt khoát từ chối. Bà đã tự cạo đầu, khoác áo cà sa, theo chân Phật từ Kapilavatthu đến thành Vesalì. Cuối cùng, do Tôn giả Ananda năn nỉ giúp, đức Phật mới chấp thuận thỉnh cầu của bà và nêu ra "Bát Kỉnh Pháp", nội dung nhằm đề cao tính chất cao trọng của Tăng đoàn trong việc hướng dẫn giáo dục Ni đoàn mà suốt đời một Tỳ-kheo ni phải tôn trọng. Thế là từ đây, đoàn Tỳ-kheo ni (Bikkhuni Sangha) do Mahapàjapatì lãnh đạo và giáo dục cùng với sự hỗ trợ của các Tỳ-kheo, sự điều động tổ chức và huấn luyện khéo léo của Mahapajàpatì, Ni đoàn lớn mạnh nhanh chóng. Nhiều Tỳ-kheo ni đắc quả A-la-hán, nhiều vị rất được uy tín đối với quần chúng nhân dân, với các triều đình. Ta có thể tìm thấy các trường hợp chứng quả, những bài kệ kỳ thú của nhiều Tỳ-kheo ni trong bộ Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ). Ví dụ như những trường hợp của các nữ trưởng lão Vimàla, Ambapalì, Kìsagotamì, Khemà, Dhammadinnà, Patacàre, v.v...
Chư Tăng thảo luận
(MC của phần 3: ....)
B. Ban hành giới luật
Một hôm, đại đức Sāriputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng phát sanh ý nghĩ “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?” Sau đó ngài đến gặp đức Thế Tôn, và hỏi Đức Phật về điều đó. Đức Phật cho biết: Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài, trong khi Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
Khi được hỏi nguyên nhân gì khiến có sự sai biệt này, Đức Phật cho biết nhờ có sự nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử, quy định điều học cho các Thinh Văn và công bố giới bổn Pātimokkha . mà phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
Sau đó, đại đức Sāriputta đã thỉnh cầu đức Thế Tôn nên công bố giới bổn Pātimokkha; để Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài. Nhưng Đức Phật nói:
- Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử. Này Sāriputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng, chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển, chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc, chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đã lìa, được thanh tịnh, trong sạch, đã an trú vào mục đích. Này Sāriputta, bởi vì trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đã) là vị Nhập Lưu, không còn pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.
Vào năm thứ sáu, sau khi đức Phật thành đạo, giới luật dành cho Tỳ-kheo bắt đầu hình thành rõ nét. Tôn giả Upàli là vị Trưởng lão gương mẫu trong giới hạnh, có năng khiếu phân tích, biện biệt về giới luật, đã được đức Phật lưu tâm dạy bảo về giới luật. Giới luật càng lúc càng tăng do những cản trở ngại gặp phải trong quá trình hình thành Tăng-già, sống chung giữa các Tỳ-kheo, tiếp xúc với cuộc đời của Giáo đoàn. Ngay trong thời đức Phật, những trường hợp vi phạm giới luật không phải là ít, nhất là khi Tăng-già đã trở nên đông đảo về sống lượng khiến cho giới bổn Patimokkha phải dài thêm ra vì nhiều giới điều được đưa vào để ngăn cấm việc tái phạm.
Chư Tăng thảo luận
(MC của phần 4a: ....)
C. Vài sự kiên lịch sử
Sự kiện ở Kosambi
Trước mùa an cư thứ 10 của Ðức Phật, ở tu viện Ghosira thuộc xứ Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp nghiêm trọng giữa chúng Tăng mà nguyên nhân thật nhỏ bé. Số là vị Kinh sư vì vô ý đã không đổ nước trong chậu ở nhà cầu sau khi tẩy tịnh. Khi vị Luật sư vào thấy hỏi: " Có phải Ðại đức để nước trong phòng vệ sinh không?" Vị Kinh sư xác nhận" "Phải". Vị Luật sư bảo việc đó phạm luật. Vị Kinh sư nói mình không biết và xin sám hối. Nhưng vị Luật sư cho rằng vì không biết và không tác ý khi làm thì vô tội. Nếu sự việc chỉ có thế thì không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng rủi thay, sau đó vị Luật sư đem việc này nói với đệ tử của mình rằng ông Pháp sư kia phạm luật. Khi tin ấy được truyền ra, học trò của vị Pháp sư nghe được, học lại với thầy mình, vị Pháp sư nói: "Ông Luật sư kia nói dối. Trước đã bảo ta vô tội, nay lại nói ta phạm tội". Từ đó học trò hai bên lời qua tiếng lại, ai cũng bênh vực thầy mình. Cuộc tranh chấp vì thế nổ tung: bên này nói bên kia là vu khống, bên kia nói bên này vọng ngữ. Bấy giờ hai vị thầy đứng đầu hai phía không còn bình tĩnh và sáng suốt nữa. Vị Luật sư tuyên bố giữa đại chúng rằng vị Kinh sư phạm giới và nếu không sám hối thì không được tham dự tụng giới vào mỗi nửa tháng. Vị Kinh sư đã bất chấp lời tuyên bố ấy ... Chính Ðức Phật đã đến tận nơi dàn xếp. Ở đây ĐứcThế Tôn đã dạy các Tỷ-kheo pháp Lục Hòa để tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
1. Sự kiện Devadatta chia rẽ Tăng
Một sự kiện quan trọng trong lịch sử Tăng Đoàn thời Đức Phật là trường hợp của Tỳ-kheo Devadatta chia rẽ Tăng chúng. Devadatta cùng với sáu Tỳ-kheo đòi sửa đổi giới luật, tuyên bố đức Phật sống xa hoa, không giữ đúng hạnh thanh bần của tu sĩ. Sự việc còn lôi kéo cả ngàn Tỳ-kheo về với Devadatta, hầu như một Giáo hội thứ hai được thành lập. Thế nhưng, uy đức của đức Phật vẫn sáng ngời, và do nổ lực giải quyết của hai Tôn Giả Sàriputta và Moggallàna, những kẻ lạc hướng đã trở lại quy phục và Devadatta tự xa lánh, bị cô lập, cô đơn, sầu khổ. Ðến khi quá ân hận, Devadatta toan tìm đến tạ tội với đức Phật, nhưng rủi ro ông bị chết trong khi đang tắm trong một cái ao.
2. Sự kiện ngài Mahakassapa quyết định duy trì giới bổn như thời Đức Phật còn tại thế:
Lúc sắp nhập Niết bàn, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: “Này Ananda, nếu chúng Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết.” Sau khi trùng tuyên Tam Tạng ở Hội Kiết Tập Tam Tạng lấn thứ nhất, ngài Ananda đưa vấn đề này ra trước Tăng chúng. Dưới sự chủ trì của ngài Mahakassapa, chư Tăng đã thảo luận vấn đề này rất lâu nhưng rốt cuộc vẫn không thể quyết định học giới nào là những học giới nhỏ nhặt chi tiết để có thể hủy bỏ. Thật ra, có thể phân định học giới lớn nhỏ tùy theo mức độ nặng nhẹ của lỗi lầm, nhưng các vị thánh tăng quyết định không thay đổi điều gì trong Patimokkha. Theo nhận xét của nhà chú giải
(MC của phần 4b: ....)
Dhammapala, có hai điều có thể rút ra từ quyết định của kỳ kết tập đầu tiên:
1. Sẽ có những vị tỷ kheo không thích giữ những học giới nhỏ nhặt, và họ sẽ nghĩ rằng tuy Đức Phật đã cho phép họ huỷ bỏ những điều luât nhỏ nhặt, họ vẫn phải bị trói buộc những điều luật đó chỉ vì đó là quyết định của chư Tăng trong kỳ kết tập đầu tiên.
2. Giới luật hoàn toàn thuộc về chư Tăng. Sự kiện cho thấy mặc dù được Đức Phật cho phép, chư Tăng vẫn không muốn hủy bỏ các học giới nhỏ nhặt.
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài Mahakassapa đã rất có trách nhiệm trong việc duy trì sự hoài hoà và đoàn kết trong Tăng đoàn. Ngài đã làm những gì có thể được để bảo tồn Pháp, Luật và truyền lại cho thế hệ tương lai một cách nguyên thủy, không hề bị xuyên tạc hay thay đổi. Điều này cũng bộc lộ thái độ của các vị trưởng lão đối với giới luật. Khác với những đệ tử của Niganthanataputta trong Kỳ Na Giáo, các vị Thanh văn đệ tử Phật không bao giờ vi phạm những học giới mà bậc Đaọ sư đã đặt ra, ngay cả khi đã được Đức Phật trao cho quyền thay đổi những học giới.
Chư Tăng thảo luận
Thơ
SA MÔN
( Riêng tặng room Diệu Pháp tuần hội thảo)
Rồi như sương trắng đầu sông,
Áo vàng làm nhánh cỏ bồng chân mây.
chụm tay một vốc sương đầy,
đời không cố quận, niềm tây riêng mình.
hài rơm, bát đất vô danh,
lãng du.. nên có mấy tình cũng phai.
đời không dám hẹn mốt mai,
dẩu am cỏ vẫn then cài đợi nhau.
đợi nhau làm cuộc qua cầu,
đưa nhau qua chốn bể dâu gọi là.
đợi nhau ấm lạnh chung trà,
chén sương ngó cõi Sa bà lênh đênh.
Toại Khanh mùa Wilma
Vẫn Nhớ Từng Đêm Cổ Thư Ơi
Mai kia còn dịp về quê cũ
Hái sậy bờ sông kết thảo lư
Cuối năm chong mắt chờ nước lũ
Bên dòng thả hết chuyện tâm tư
Những bếp lửa chiều ngồi nấu thuốc
Nắng quái nhuộm vàng áo lão sư
Có con bìm bịp kêu nước lớn
Người gỏ ấm trà hát vô tư
Thiên hạ rằng ngoài sông có quỷ
Với những tràng cười suốt canh khuya
Những chiều mưa gió qua bãi sậy
Có bóng lêu khêu vẫn đi về
Ðôi lúc giữa trời nước mênh mông
Tiếng ai rờn rợn suốt bãi sông
"Ðời mạt pháp rồi, trời sắp tối
Ðò sang bờ Giác, ai đi không ?”
Toại Khanh
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(MC của phần I: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 26 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 3 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Phần III. Tăng già thời Phật trụ thế. Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(MC của phần I: ....(...... điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần III. Tăng già thời Phật trụ thế
Chủ biên: Sư Cô Liễu Pháp
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
______________________________
(MC của phần 2a: ....)
A. Sự thành lập Tăng hội
Bảy ngày sau khi thành Đạo, Đức Phật rời cội Bồ-đề, rời Uruvelà, hướng về phía sông Gange, ngược dòng sông, vượt qua sông mà sang phía hữu ngạn, tiếp tục đi về Baranàsi là nơi mà gần đó, tại vườn Lộc Uyển, năm vị Sa-môn nhóm Tôn giả Kodannà (Kiều-trần-như) đang tụ tập sau khi rời bỏ đức Phật vì tưởng là Ngài đã thối chí, không chịu nổi khổ hạnh mà bỏ Chánh đạo. Tại đây, hai tháng sau khi thành đạo, đức Phật đã chuyển Pháp luân đầu tiên trong thế gian này. Kodannà và bốn vị cùng tu được đức Phật thuyết giảng Chánh pháp, giáo lý chân thật, tối thượng mà gần gũi con người nhất, thiết thực, cụ thể nhất đối với con người.
Sau bài thuyết pháp đầu tiên này, Tôn giả Kiều-trần-như đắc quả Dự lưu (quả vị thứ nhất trong bốn Thánh quả) và cả năm vị Tỳ-kheo đều xin quy y. Bốn ngày liên tiếp sau đó đức Phật dạy về Vô ngã, tất cả năm vị đều đắc quả A-la-hán là quả vị tối thượng trong hàng đệ tử Phật. Ðấy là năm đệ tử đầu tiên xuất gia của Phật. Ðấy là Giáo đoàn, Tăng-già Phật giáo đầu tiên, cơ sở cho Giáo hội Phật giáo sau này.
Sau đó, cũng tại vườn Lộc Uyển, Đức Phật còn giảng về Tứ Ðế cho Yasa (Da-xá), một thanh niên, con một trưởng giả ở Baranasì, bỏ nhà vượt sông Varana đến ra mắt đức Phật. Yasa đắc A-la-hán. Bốn bằng hữu nữa của Tôn giả Yasa, trong hàng trưởng giả của Baranasì là Vimàla, Subàhu, Purnajit và Gavàmpati cũng xin đến quy y, nghe Pháp Phật và đều đắc quả A-la-hán. Bấy giờ, Giáo đoàn của Phật, ngoài bậc Ðại Giác, gồm thêm mười vị A-la-hán. Cũng tại Baranasì, đức Phật độ thêm đến vài chục vị nữa, những vị này ở các nước lân cận, đều là bạn bè, thân thích của Tôn giả Yasa, hoặc của các vị A-la-hán vừa đắc quả. Khi Giáo đoàn gồm được sáu mươi vị A-la-hán, đức Phật dạy các vị Tỳ-kheo:
"Này các Tỳ-kheo, hãy đi đi, đi khắp nơi vì lợi lạc và hạnh phúc của số đông, do lòng từ bi đối với cuộc đời, vì lợi lạc và hạnh phúc của Trời và Người. Chớ đi hai người chung đường với nhau. Này các Tỳ-kheo, hãy thuyết giảng giáo pháp cao thượng ở lúc khởi đầu và cao thượng ở lúc giữa, cao thượng ở lúc cuối trong tâm trí và trong ngôn từ. Hãy rao giảng sự toàn hảo viên mãn, đời sống thanh tịnh của trạng thái cao cả. Có những kẻ mà trí óc chỉ bị che mờ bởi đôi chút bụi bặm, nhưng nếu không được giải thoát: những kẻ ấy sẽ hiểu pháp". (Mahàvagga I, 11 - Ðại phẩm)
(MC của phần 2b: ....)
Sứ mệnh phát triển Phật giáo, giảng pháp cứu đời, cụ thể là chủ trương thành lập Tăng đoàn đã được thể hiện rõ ràng. Dân chúng đã quen thuộc, đã để ý, đã kính trọng các vị đệ tử đức Phật. Khi các Tỳ-kheo Thánh giả đã đi khắp bốn phương để hóa độ người, đức Phật trở lại Uruvela. Ðến mé sông Niranjara (Ni-liên-thuyền), Ngài gặp Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp) đang cùng năm trăm đệ tử tu tại đây. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Tôn giả đắc quả A-la-hán, liền giới thiệu hai em là Nadi Kassapa (Na-đề Ca-diếp) và Gaya Kassapa (Già-da Ca-diếp) đang lãnh đạo mỗi vị hai trăm năm mươi đệ tử đến quy y Phật. Hai vị này cùng rất nhiều đệ tử đắc A-la-hán.
Bấy giờ là năm thứ ba (mùa an cư thứ hai) sau ngày đức Phật thành đạo, đức Phật cùng đoàn đệ tử đông đảo của Ngài tiến lên phía Bắc hướng đến thành Ràjagaha (Vương Xá), thủ đô của nước Magadha (Ma-kiệt-đà), trú tại một ngọn đồi gần thành.
Ðức Phật và giáo đoàn của Ngài đã chiếm được sự tín ngưỡng, ưu ái của dân chúng trong và ngoài thành Vương Xá. Vua Bimbisàra rất khâm phục, kính mộ đức Phật, xin quy y và dâng cúng rừng Veluvana (Trúc Lâm) trong đó nhà vua cho xây cất đầy đủ tiện nghi để dùng làm tinh xá, gồm giảng đường, phòng ốc, vật dụng đủ cho đức Phật và giáo đoàn tới cả một ngàn người của Ngài. Ðây là trú xứ đầu tiên, mở đầu một giai đoạn mới, một khởi đầu của việc cư trú có tính cách định cư, khác với lối sống lang thang của các đoàn Sa-môn lúc bấy giờ.
Sự hình thành Ni đoàn:
Năm 504 trước Tây lịch, tức năm thứ năm sau khi Phật thành đạo, vua Suddhodana (Tịnh Phạn) sắp mất, đang hấp hối. Ðức Phật vội rời Sàvatthi để trở về Kapilavatthu gặp vua cha. Bên giường bệnh, đức Phật đã thuyết Pháp và nhà vua đắc quả A-la-hán trước khi lìa trần.
Trong dịp này, bà Mahapajàpatì (Ma-ha-ba-xà-ba-đề), di mẫu của Phật, cầu xin được xuất gia, gia nhập Giáo đoàn, thành lập đoàn Tỳ-kheo ni, đức Phật dứt khoát từ chối. Bà đã tự cạo đầu, khoác áo cà sa, theo chân Phật từ Kapilavatthu đến thành Vesalì. Cuối cùng, do Tôn giả Ananda năn nỉ giúp, đức Phật mới chấp thuận thỉnh cầu của bà và nêu ra "Bát Kỉnh Pháp", nội dung nhằm đề cao tính chất cao trọng của Tăng đoàn trong việc hướng dẫn giáo dục Ni đoàn mà suốt đời một Tỳ-kheo ni phải tôn trọng. Thế là từ đây, đoàn Tỳ-kheo ni (Bikkhuni Sangha) do Mahapàjapatì lãnh đạo và giáo dục cùng với sự hỗ trợ của các Tỳ-kheo, sự điều động tổ chức và huấn luyện khéo léo của Mahapajàpatì, Ni đoàn lớn mạnh nhanh chóng. Nhiều Tỳ-kheo ni đắc quả A-la-hán, nhiều vị rất được uy tín đối với quần chúng nhân dân, với các triều đình. Ta có thể tìm thấy các trường hợp chứng quả, những bài kệ kỳ thú của nhiều Tỳ-kheo ni trong bộ Therigàthà (Trưởng lão Ni kệ). Ví dụ như những trường hợp của các nữ trưởng lão Vimàla, Ambapalì, Kìsagotamì, Khemà, Dhammadinnà, Patacàre, v.v...
Chư Tăng thảo luận
(MC của phần 3: ....)
B. Ban hành giới luật
Một hôm, đại đức Sāriputta trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vắng phát sanh ý nghĩ “Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã không tồn tại lâu dài? Phạm hạnh thời chư Phật Thế Tôn nào đã tồn tại lâu dài?” Sau đó ngài đến gặp đức Thế Tôn, và hỏi Đức Phật về điều đó. Đức Phật cho biết: Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Vipassī, thời đức Thế Tôn Sikhī, và thời đức Thế Tôn Vessabhū đã không tồn tại lâu dài, trong khi Phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
Khi được hỏi nguyên nhân gì khiến có sự sai biệt này, Đức Phật cho biết nhờ có sự nỗ lực để thuyết giảng Giáo Pháp một cách chi tiết đến các đệ tử, quy định điều học cho các Thinh Văn và công bố giới bổn Pātimokkha . mà phạm hạnh thời đức Thế Tôn Kakusandha, thời đức Thế Tôn Konāgamana, và thời đức Thế Tôn Kassapa đã tồn tại lâu dài.
Sau đó, đại đức Sāriputta đã thỉnh cầu đức Thế Tôn nên công bố giới bổn Pātimokkha; để Phạm hạnh này có thể được tiếp tục và tồn tại lâu dài. Nhưng Đức Phật nói:
- Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hãy chờ đợi! Trong trường hợp ấy, chỉ có Như Lai mới biết thời điểm. Này Sāriputta, cho đến khi nào một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này thì cho đến khi ấy bậc Đạo Sư chưa quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử. Này Sāriputta, chính bởi vì một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội chúng này nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu hoặc ấy. Này Sāriputta, cho đến khi nào hội chúng chưa đạt đến sự lớn mạnh về số lượng, chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển, chưa đạt đến sự dồi dào về lợi lộc, chưa đạt đến sự lớn mạnh về việc học nhiều thì cho đến khi ấy một số pháp đưa đến lậu hoặc chưa xuất hiện trong hội chúng này. Này Sāriputta, bởi vì hội chúng tỳ khưu không có ô nhiễm, không có tội lỗi, có ác pháp đã lìa, được thanh tịnh, trong sạch, đã an trú vào mục đích. Này Sāriputta, bởi vì trong số năm trăm tỳ khưu này, vị tỳ khưu thấp nhất (đã) là vị Nhập Lưu, không còn pháp bị đọa, được bền vững, và hướng đến sự giác ngộ.
Vào năm thứ sáu, sau khi đức Phật thành đạo, giới luật dành cho Tỳ-kheo bắt đầu hình thành rõ nét. Tôn giả Upàli là vị Trưởng lão gương mẫu trong giới hạnh, có năng khiếu phân tích, biện biệt về giới luật, đã được đức Phật lưu tâm dạy bảo về giới luật. Giới luật càng lúc càng tăng do những cản trở ngại gặp phải trong quá trình hình thành Tăng-già, sống chung giữa các Tỳ-kheo, tiếp xúc với cuộc đời của Giáo đoàn. Ngay trong thời đức Phật, những trường hợp vi phạm giới luật không phải là ít, nhất là khi Tăng-già đã trở nên đông đảo về sống lượng khiến cho giới bổn Patimokkha phải dài thêm ra vì nhiều giới điều được đưa vào để ngăn cấm việc tái phạm.
Chư Tăng thảo luận
(MC của phần 4a: ....)
C. Vài sự kiên lịch sử
Sự kiện ở Kosambi
Trước mùa an cư thứ 10 của Ðức Phật, ở tu viện Ghosira thuộc xứ Kosambi đã xảy ra một vụ tranh chấp nghiêm trọng giữa chúng Tăng mà nguyên nhân thật nhỏ bé. Số là vị Kinh sư vì vô ý đã không đổ nước trong chậu ở nhà cầu sau khi tẩy tịnh. Khi vị Luật sư vào thấy hỏi: " Có phải Ðại đức để nước trong phòng vệ sinh không?" Vị Kinh sư xác nhận" "Phải". Vị Luật sư bảo việc đó phạm luật. Vị Kinh sư nói mình không biết và xin sám hối. Nhưng vị Luật sư cho rằng vì không biết và không tác ý khi làm thì vô tội. Nếu sự việc chỉ có thế thì không có vấn đề gì xảy ra. Nhưng rủi thay, sau đó vị Luật sư đem việc này nói với đệ tử của mình rằng ông Pháp sư kia phạm luật. Khi tin ấy được truyền ra, học trò của vị Pháp sư nghe được, học lại với thầy mình, vị Pháp sư nói: "Ông Luật sư kia nói dối. Trước đã bảo ta vô tội, nay lại nói ta phạm tội". Từ đó học trò hai bên lời qua tiếng lại, ai cũng bênh vực thầy mình. Cuộc tranh chấp vì thế nổ tung: bên này nói bên kia là vu khống, bên kia nói bên này vọng ngữ. Bấy giờ hai vị thầy đứng đầu hai phía không còn bình tĩnh và sáng suốt nữa. Vị Luật sư tuyên bố giữa đại chúng rằng vị Kinh sư phạm giới và nếu không sám hối thì không được tham dự tụng giới vào mỗi nửa tháng. Vị Kinh sư đã bất chấp lời tuyên bố ấy ... Chính Ðức Phật đã đến tận nơi dàn xếp. Ở đây ĐứcThế Tôn đã dạy các Tỷ-kheo pháp Lục Hòa để tạo thành tương ái, tạo thành tương kính, đưa đến hòa đồng, đưa đến vô tranh luận, hòa hợp, nhất trí.
1. Sự kiện Devadatta chia rẽ Tăng
Một sự kiện quan trọng trong lịch sử Tăng Đoàn thời Đức Phật là trường hợp của Tỳ-kheo Devadatta chia rẽ Tăng chúng. Devadatta cùng với sáu Tỳ-kheo đòi sửa đổi giới luật, tuyên bố đức Phật sống xa hoa, không giữ đúng hạnh thanh bần của tu sĩ. Sự việc còn lôi kéo cả ngàn Tỳ-kheo về với Devadatta, hầu như một Giáo hội thứ hai được thành lập. Thế nhưng, uy đức của đức Phật vẫn sáng ngời, và do nổ lực giải quyết của hai Tôn Giả Sàriputta và Moggallàna, những kẻ lạc hướng đã trở lại quy phục và Devadatta tự xa lánh, bị cô lập, cô đơn, sầu khổ. Ðến khi quá ân hận, Devadatta toan tìm đến tạ tội với đức Phật, nhưng rủi ro ông bị chết trong khi đang tắm trong một cái ao.
2. Sự kiện ngài Mahakassapa quyết định duy trì giới bổn như thời Đức Phật còn tại thế:
Lúc sắp nhập Niết bàn, Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda: “Này Ananda, nếu chúng Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học giới nhỏ nhặt chi tiết.” Sau khi trùng tuyên Tam Tạng ở Hội Kiết Tập Tam Tạng lấn thứ nhất, ngài Ananda đưa vấn đề này ra trước Tăng chúng. Dưới sự chủ trì của ngài Mahakassapa, chư Tăng đã thảo luận vấn đề này rất lâu nhưng rốt cuộc vẫn không thể quyết định học giới nào là những học giới nhỏ nhặt chi tiết để có thể hủy bỏ. Thật ra, có thể phân định học giới lớn nhỏ tùy theo mức độ nặng nhẹ của lỗi lầm, nhưng các vị thánh tăng quyết định không thay đổi điều gì trong Patimokkha. Theo nhận xét của nhà chú giải
(MC của phần 4b: ....)
Dhammapala, có hai điều có thể rút ra từ quyết định của kỳ kết tập đầu tiên:
1. Sẽ có những vị tỷ kheo không thích giữ những học giới nhỏ nhặt, và họ sẽ nghĩ rằng tuy Đức Phật đã cho phép họ huỷ bỏ những điều luât nhỏ nhặt, họ vẫn phải bị trói buộc những điều luật đó chỉ vì đó là quyết định của chư Tăng trong kỳ kết tập đầu tiên.
2. Giới luật hoàn toàn thuộc về chư Tăng. Sự kiện cho thấy mặc dù được Đức Phật cho phép, chư Tăng vẫn không muốn hủy bỏ các học giới nhỏ nhặt.
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài Mahakassapa đã rất có trách nhiệm trong việc duy trì sự hoài hoà và đoàn kết trong Tăng đoàn. Ngài đã làm những gì có thể được để bảo tồn Pháp, Luật và truyền lại cho thế hệ tương lai một cách nguyên thủy, không hề bị xuyên tạc hay thay đổi. Điều này cũng bộc lộ thái độ của các vị trưởng lão đối với giới luật. Khác với những đệ tử của Niganthanataputta trong Kỳ Na Giáo, các vị Thanh văn đệ tử Phật không bao giờ vi phạm những học giới mà bậc Đaọ sư đã đặt ra, ngay cả khi đã được Đức Phật trao cho quyền thay đổi những học giới.
Chư Tăng thảo luận
Thơ
SA MÔN
( Riêng tặng room Diệu Pháp tuần hội thảo)
Rồi như sương trắng đầu sông,
Áo vàng làm nhánh cỏ bồng chân mây.
chụm tay một vốc sương đầy,
đời không cố quận, niềm tây riêng mình.
hài rơm, bát đất vô danh,
lãng du.. nên có mấy tình cũng phai.
đời không dám hẹn mốt mai,
dẩu am cỏ vẫn then cài đợi nhau.
đợi nhau làm cuộc qua cầu,
đưa nhau qua chốn bể dâu gọi là.
đợi nhau ấm lạnh chung trà,
chén sương ngó cõi Sa bà lênh đênh.
Toại Khanh mùa Wilma
Vẫn Nhớ Từng Đêm Cổ Thư Ơi
Mai kia còn dịp về quê cũ
Hái sậy bờ sông kết thảo lư
Cuối năm chong mắt chờ nước lũ
Bên dòng thả hết chuyện tâm tư
Những bếp lửa chiều ngồi nấu thuốc
Nắng quái nhuộm vàng áo lão sư
Có con bìm bịp kêu nước lớn
Người gỏ ấm trà hát vô tư
Thiên hạ rằng ngoài sông có quỷ
Với những tràng cười suốt canh khuya
Những chiều mưa gió qua bãi sậy
Có bóng lêu khêu vẫn đi về
Ðôi lúc giữa trời nước mênh mông
Tiếng ai rờn rợn suốt bãi sông
"Ðời mạt pháp rồi, trời sắp tối
Ðò sang bờ Giác, ai đi không ?”
Toại Khanh
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già với chủ đề Con đường thoát tục với sự điều hợp chương trình của chư Tôn Đức , các MC và ops của room DP. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca MâuNi Phật
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
<< Home