Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
Con .............. (............. điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 06 tháng 04 năm 2006 Phật lịch 2549. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay là lớp Trung Bộ Kinh chúng ta sẽ học TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 95: CANKĪ do TT Tuệ Siêu hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya
(Đại Đức Minh Hạnh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________
(MC của phần I: ........... (...... điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Bài Học hôm nay:
CANKĪ
______________
Giảng sư: TT Tuệ Siêu
II. TÓM TẮT
Phần dẫn nhập:
Khi Phật ở trong rừng Chư thiên [2] tại làng Opasāda nước Kosala, nhiều gia chủ bà la môn nghe tiếng đồn tốt đẹp về Ngài đã kéo nhau đi yết kiến. Bà la môn Cankī từ trên lầu cao trông thấy cảnh ấy, hỏi người quản gia và sau khi biết chuyện, liền sai người này đến báo với đoàn người hãy chờ, ông cũng muốn đi yết kiến Phật. Bấy giờ có một số đông bà la môn từ nhiều địa phương khác đến, nghe bà la môn Cankī đi yết kiến Phật thì can ngăn vì cho rằng không xứng đáng cho bà la môn Cankī yết kiến sa môn Cồ Đàm, mà ngược lại, hãy để Cồ Đàm yết kiến bà la môn Cankī, vì Cankī có dòng họ cao quý, giàu có, thông ba tập Vệ đà với 5 yếu tố: danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải, lịch sử truyền thống; lại đẹp trai, khả ái, có giới hạnh; được vua chúa kính nể, được bà la môn Pokkarasati [3] kính nể.
Cankī cũng đưa ra những lý do ông phải đi yết kiến Phật: Sa môn Gotama là bậc thiện sanh từ phụ hệ và mẫu hệ; Ngài đã từ bỏ rất nhiều vàng bạc, xuất gia trong tuổi thanh xuân; Ngài là bậc tôn sư của những bậc tôn sư trong thiên hạ; Ngài đầy đủ 32 đại nhân tướng; và Ngài là khách quý của địa phương này, nên thật xứng đáng cho Cankī đến yết kiến.
Đến nơi, thấy Phật đang đàm luận với một số bà la môn trưởng thượng, và có một thanh niên bà la môn tên Kapathika thỉnh thoảng lại ngắt lời những vị này, bị Phật khiển trách, bà la môn Cankī liền can thiệp, xin tôn giả Gotama đừng khiển trách vì thanh niên này là bậc đa văn, có trí, giỏi biện luận. Phật biết được tâm ý thanh niên này muốn vấn nạn Ngài, nên để mắt đến anh ta.
Phần chính:
Kapathika bạch: Thưa sa môn Cồ đàm, y cứ vào các chú thuật xưa đã được khẩu truyền đến nay, các bà la môn đi đến kết luận: chỉ đây mới là sự thật, ngoài ra đều sai lầm. Ngài nói sao về điều ấy ?
Phật hỏi lại thanh niên: Có một người bà la môn nào, hay bậc thầy nào của Bà la môn hiện tại hay lùi về bảy đời trước, đã nói: Tôi đã biết đã thấy điều này, chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai ? Thanh niên đáp không có.
Phật lại hỏi những nhà tụng tán và tác giả các chú thuật [4] được khẩu truyền cho đến bây giờ, có nói rằng: Tôi biết, tôi thấy điều này; chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm ? Thanh niên cũng nói không.
Khi ấy Phật dạy, vì không một người bà la môn nào trong quá khứ hay hiện tại đã thực sự thấy, biết, thì câu họ nói chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm, chỉ như một chuỗi người mù ôm lưng nhau, và lòng tin của họ trở thành vô căn cứ. Thanh niên bà la môn nói không phải bà la môn chỉ dựa trên lòng tin, mà còn trên sự truyền khẩu (lời đồn).
Phật dạy có 5 việc mà ngay hiện tại cũng có thể đem lại hai kết quả khác nhau (nghĩa là không chắc chắn) đó là tín (tin tưởng), tùy hỷ (vui theo, đồng ý), tùy văn (nghe truyền tụng), cân nhắc suy tư các lý do, và chấp nhận quan điểm [5]. Có những điều lúc đầu được ta tin tưởng hoàn toàn, mà về sau thành trống rỗng hư vọng, ngược lại cũng có điều lúc đầu ta không tin nhưng về sau hóa ra là chân thật. Bốn việc còn lại cũng thế. Do vậy người trí tôn trọng sư thật (hộ trì chân lý) không nên đi đến kết luận: chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai lầm [6].
Khi ấy thanh niên hỏi thế nào gọi là hộ trì chân lý [7], Phật dạy ấy là khi một người nói tôi tin điều này, nhưng không cả quyết chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều sai. Với bốn việc còn lại cũng vậy, người ấy không cả quyết như trên, thì gọi là hộ trì chân lý (hay bảo vệ, tôn trọng sự thật). Nhưng như thế chưa phải là khám phá chân lý [8].
Khám phá hay chứng ngộ chân lý là, sau khi quan sát kỹ một bậc thầy [9] về thân ngữ ý hành, thấy vị ấy không còn bị tham, sân, si chi phối khiến vị ấy có thể dối gạt người khác, xúi họ đi đến tự hại, phải đau khổ lâu dài, một người khởi lòng tin, đến gần, thân cận giao thiệp, lóng tai, nghe pháp, thọ trì pháp, tìm hiểu ý nghĩa các pháp ấy, nhờ hiểu nên hoan hỉ chấp nhận, rồi khởi lên ước muốn tu tập, khi đã ước muốn thì cố gắng, sau khi cố gắng liền cân nhắc [10], sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần [11], nhờ tinh cần, vị ấy tự thân chứng ngộ chân lý và thể nhập chân lý với trí tuệ [12]. Nhưng thế cũng chưa phải chứng đạt chân lý [13].
Muốn chứng đạt chân lý, cần phải tu tập nhiều lần. Trong việc chứng đạt chân lý, cốt nhất là tinh cần. Muốn tinh cần, phải cân nhắc. Muốn cân nhắc phải cố gắng. Muốn cố gắng phải có ước muốn. Để có ước muốn, cần phải hoan hỉ chấp nhận. Muốn hoan hỉ chấp nhận, phải tìm hiểu ý nghĩa. Muốn tìm hiểu ý nghĩa phải thọ trì pháp. Muốn thọ trì pháp thì phải nghe pháp. Muốn nghe pháp phải lóng tai. Muốn lóng tai phải thân cận giao thiệp. Muốn thân cận giao thiệp phải đến gần. Muốn đến gần phải có lòng tin.
Thanh niên bà la môn tán thán Phật đã gợi nơi anh ta lòng ái kính sa môn, và xin Phật nhận anh làm đệ tử cư sĩ, từ nay đến mạng chung trọn đời quy ngưỡng [14].
III. CHÚ GIẢI
1. Đoạn mở đầu kinh này gần giống như đoạn mở đầu kinh Trung Bộ 4, nhan đề Sonadanda sutta.
2. Theo kinh sớ, rừng này được gọi là Rừng chư thiên Devavana, vì những đồ cúng ở đấy dành để cúng chư thiên.
3. Pokkarasāti là một bà la môn giàu có khác, được Vua Ba Tư Nặc phong ấp tên Ukkatthā. Trong kinh Trường bộ 2, sau khi nghe Phật thuyết pháp, ông chứng quả Dự Lưu và đã cùng với gia đình quyến thuộc xin quy y.
4. Atthaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Angirasa, Bhāradvāja, Vāsettha, Kassapa, và Bhagu là những vị ẩn sĩ mà các bà la môn xem như những người biên chép kinh Vệ Đà do Thiên khải.
5. Saddhā, ruci, anussava, ākāraparivitakka, ditthinijjhānakkhanti. Trong 5 nền tảng này để đặt đến niềm tin, 2 yếu tố đầu hoàn toàn thuộc về cảm xúc, yếu tố thứ 3 là sự chấp nhận truyền thống một cách mù quáng, và 2 yếu tố cuối cùng thuộc phạm vi suy luận nhận thức. Những thứ này đều có thể có hai cách khác nhau; cách nào cũng có thể thành đúng và sai.
6. Không thể đi đến kết luận chỉ đây là đúng, khi không tự mình thấy rõ sự thật, mà chỉ công nhận dựa trên 5 căn cứ như trên, những cơ sở không có gì chắc chắn.
7. Saccānurakkhana, hộ trì chân lý, bảo vệ sự thật.
8. Saccānubodha, khám phá, chứng ngộ chân lý.
9. Phương pháp tìm ra chân lý (tìm hiểu người nói pháp có bị còn tham, sân, si chi phối đến nỗi xúi kẻ khác tự hại, hại người không. Sau khi biết thân ngữ ý hành vị ấy không phải của kẻ bị ám vì tham sân si, thì biết Pháp do vị ấy giảng là sâu xa, được người trí chứng biết, không dễ gì do một kẻ còn tham sân si mà dạy được) theo kinh này dường như khai triển phương pháp đã được nói trong kinh số 47.
10. Tūleti. Vị ấy tra tầm các pháp theo nguyên lý vô thường, v.v… Giai đoạn này như vậy dường như là giai đoạn tuệ quán.
11. Nỗ lực ussahati, có vẻ đồng nghĩa với padahati, tinh cần, nhưng động từ trước có nghĩa là nỗ lực trước khi tuệ quán, động từ sau là nỗ lực nâng tuệ quán lên đạo lộ siêu thế.
12. Kinh sớ: vị ấy chứng Niết bàn với thân tâm lý thuộc đạo lộ Dự Lưu, và sau khi thâm nhập các cấu uế, vị ấy chứng niết bàn bằng trí tuệ, làm cho niết bàn hiển lộ.
13. Trong kinh này, sự khám phá chân lý dường như có nghĩa đắc quả Dự Lưu, sự chứng đạt chân lý dường như có nghĩa đắc quả A la hán.
14. Xem chú thích số 8 kinh 50.
IV. PHÁP SỐ
3 độc tham sân si; 5 pháp không chắc chắn: tín, tùy hỉ, tùy văn, cân nhắc suy tư, chấp nhận quan điểm; 12 pháp đưa đến chứng đạt chân lý: lòng tin, đến gần, giao thiệp, lóng tai, nghe pháp, thọ trì pháp, tìm hiểu ý nghĩa, hoan hỉ chấp nhận…
V. KỆ TỤNG
___Bà la môn Cankī
___Đến yết kiến Thế tôn
___Lúc Phật đang luận đàm
___Cùng các bậc trưởng thượng
___Một bà la môn trẻ
___Tên Ka-pa-thi-ka
___Ưa ngắt lời người lớn
___Phật khiển trách anh ta
___Cankī liền can thiệp
___Xin tôn giả Gotama
___Đừng khiển trách Ka-pa
___Có trí, giỏi biện luận.
___Biết tâm của Ka-pa
___Thế tôn đưa mắt nhìn
___Ka-pa-thi-ka bạch:
___- Xin hỏi Gô-ta-ma,
___Căn cứ vào chú thuật
___Bà la môn kết luận:
___Chỉ đây là sự thật
___Ngoài ra đều sai lầm.
___Ngài có ý kiến gì
___Về lời tuyên bố ấy
___Xin tôn giả chỉ dạy ?
___Phật hỏi lại thanh niên:
___"Trong các bà la môn
___Hiện tại, từ bảy đời,
___Có ai tự thấy biết
___Và tuyên bố thành lời:
___Tôi biết, thấy điều này
___Chỉ đây là sự thật.
___Ngoài ra đều là sai ?"
___Thanh niên đáp rằng không.
___"Tác giả các chú thật
___Được khẩu truyền xưa nay
___Có ai nói như vầy ?"
___- Cũng không, thưa tôn giả
___"Nếu sự tình là vậy
___Không bà la môn nào
___Trong quá khứ hiện tại
___Đã thực sự thấy, biết
___Mà lại loan truyền câu:
___Chỉ đây là sự thật,
___Ngoài ra đều sai lầm,
___Như mù nối đuôi nhau
___Tin vậy vô căn cứ".
___Bà la môn cãi lại:
___- Không phải chỉ lòng tin
___Mà còn sự truyền khẩu.
___Phật dạy: "Có 5 việc
___Có thể đúng hoặc sai
___Và cho hai quả báo
___Ngay trong thời hiện tại
___Một, tin; hai, đồng ý
___Nghe truyền tụng là ba;
___Bốn, cân nhắc suy luận
___Năm, chấp nhận quan điểm.
___Có thể điều ta tin,
___Thì hóa ra trật lất
___Ngược lại cũng có điều
___Không tin mà có thật
___Điều gì ta đồng ý
___Có thể là trống không
___Điều ta không đồng ý
___Có thể là đúng lý
___Ba việc kia cũng vậy
___Có khi đúng khi sai
___Do vậy người có trí
___Không kết luận vội vàng
___Nói tôi tin điều này,
___Nhưng không có cả quyết
___Chỉ đây là sự thật,
___Ngoài ra đều lầm sai.
___Với bốn việc còn lại
___Cũng thái độ như trên
___Là hộ trì chân lý
___Nhưng chưa phải chứng ngộ
___Khám phá hay chứng ngộ
___Là quan sát bậc thầy
___Thân ngữ ý hành vi
___Không còn tham sân si
___Không dối gạt người khác
___Khiến họ khổ lâu dài,
___Sau khi thấy như vậy
___Khởi lòng tin vị ấy
___Rồi đến gần, giao thiệp
___Lóng tai mà nghe pháp
___Thọ trì pháp đã nghe
___Và tìm hiểu ý nghĩa
___Hiểu rồi vui chấp nhận
___Khởi lên ước muốn tu
___Cố gắng, và cân nhắc
___Cuối cùng, phải tinh cần.
___Nhờ tinh cần, thân chứng
___Thể nhập với trí tuệ
___Nhưng thế cũng chưa phải
___Là chứng đạt chân lý
___Muốn chân lý chứng đạt
___Cần tu tập nhiều lần
___Cốt nhất là tinh cần
___Pháp hành trì nhiều nhất
___Tinh cần do cân nhắc
___Cân nhắc do cố gắng
___Cố gắng do ước muốn
___Ước muốn do chấp nhận
___Chấp nhận do hiểu nghĩa
___Hiểu nghĩa nhờ thọ trì
___Thọ trì nhờ nghe pháp
___Nghe pháp nhờ lóng tai
___Lóng tai nhờ thân cận
___Thân cận nhờ đến gần
___Đến gần nhờ lòng tin
___Mối đầu của thành đạt."
___Thanh niên bà la môn
___Tán thán đức Thế tôn
___Đã gợi nơi anh chàng
___Lòng ái kính sa môn
___Chàng xin quy y Phật
___Xin làm một cư sĩ
___Từ nay đến mạng chung
___Sẽ trọn đời quy y.
________________________________________
Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ngày mai chúng ta sẽ có lớp A Tỳ Đàm do TT Tuệ Siêu giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng..
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya
mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)
Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.
<< Home