Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
MC1: Con ............... (...................... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 01 tháng 08 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay là Lớp Ngôn Ngữ Thiền Môn bài Những danh từ dùng để chỉ chùa chiền Phật giáo do SC Liễu Pháp hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya
(Đại Đức Minh Hạnh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________
(MC1: .................... (................ điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Bài học hôm nay:
Những danh từ dùng để chỉ chùa chiền Phật giáo
______________
Chùa chiền tiếng Hán Việt gọi là "tự viện", là nơi an trí tượng Phật và chỗ cư trú tu hành đạo Phật của các Tăng Ni.
Tự viện còn có các tên gọi khác là tự sát, tăng tự, tinh xá, đạo tràng, Phật sát, Phạm sát, lan nhã, tùng lâm, chiên đàn lâm, đàn lâm, nữu viên, phù đồ, tự tháp, kim sát, bửu sát, tịnh sát, cổ sát, thiền sát, đại tùng lâm, danh sát, cự sát, thiền lâm, thiền cát v.v.. Quyển 39 sách Châu Lâm lại còn gọi ngôi chùa là tịnh trú xá, pháp đồng xá, xuất thế gian xá, kim cương tịnh sát, tịch diệt đạo tràng, thanh tịnh vô cự viên, viễn ly ác xứ, thân cận thiện xứ v.v.
Tiếng Phạn có nghĩa tương đương với tự viện là vīhāra và samghārāma. Vihāra dịch theo âm là tī-ha-la, dịch theo ý là trụ xứ, du hành xứ, samghārāma dịch theo âm là Tăng già lam, dịch theo ý là chúng viên, nhưng nói chung cả hai từ nầy đều có thể dịch là "Tinh xá", ý chỉ cư xá của người tu hành tinh luyện.
Lại từ "lan nhã" là tiếng gọi tắt của "a lan nhã", cũng còn gọi là "a luyện nhã" là dịch theo âm của tiếng Phạn aranya (Pāli: arañña). Nếu dịch theo ý là "vô tránh, không nhàn xứ", ý chỉ nơi xa cách xóm làng, thích hợp chuyện tu hành. Còn tự viện được gọi là "sát" là do người ta dịch trại từ Phạn ngữ laksatā, có nghĩa là cây phướng, do trước chánh điện các chùa đều có dựng một cây cột phướng.
Còn ở Trung Quốc khi xưa thì theo quyển thượng sách "Đại Tống Tăng Sử Lược" từ "Tự" dùng để chỉ "Hồng Lô tự" là nơi mà triều đình lập ra để tiếp đón tân khách bốn phương như các Tăng sĩ Tây Vực đến Đông Độ phần nhiều trước tiên tạm ngụ tại "Hồng Lô tự" như một quán dịch, sau đó mới dời đi nơi khác. Do đó mà người ta mới gọi nơi cư trú của Tăng Ni về sau là "Tự".
MC2: ................ / ĐK: ..................
Còn từ "Viện" nguyên chỉ cơ sở kiến trúc có tường bao quanh, hoặc có các hành lang bao quanh, hoặc chỉ các quan thự. Đến đời Đường, nhân hoàng đế ban sắc chỉ xây dựng viện phiên dịch kinh Đại Từ Ân mà từ "Viện" chỉ cơ sở kiến trúc Phật giáo ra đời. Đến thời mạt Đường, chùa Phật được gọi là "Viện" rất nhiều, nhất là đến đời Tống, các chùa to lớn do triều đình xây dựng phần nhiều cũng gọi là "Viện".
Từ Trung diệp nhà Đường cho đến Ngũ Đại, Thiền tông xương thịnh hẳn lên, và cho đến đời Tống thì các chùa Giáo tông (tức 12 tông còn lại ngoài Thiền Tông) đa phần đã cải biến thành Thiền tự. Từ đó về sau hầu như người ta đương nhiên dùng từ Thiền tự hoặc Thiền viện để chỉ ngôi chùa, vô hình dung quên hẳn từ Tự viện. Lại nữa Thiền Tông còn dùng từ Tùng Lâm, Thiền lâm hoặc Thiền các để chỉ tự viện. Sở dĩ là dùng chữ Lâm để chỉ ngôi chùa là có ý nói chúng Tăng tập hợp, sống hòa hợp trong quy luật để tu hành như sự tề chỉnh của rừng vậy.
Trong chúng tùng lâm nếu sư gia y theo pháp hệ mà truyền pháp cho đệ tử tiếp nối làm trụ trì thì gọi là " Pháp môn tùng lâm ", còn gọi là Tử tôn tùng lâm, ý nói ngôi chùa do đệ tử thay thầy làm trụ trì. Còn ngược lại, nếu chiêu tập cao Tăng trong thiên hạ để thay thế làm trụ trì thì gọi là "Thập phương tùng lâm", hoặc "Thập phương sát".
Việc phân loại và gọi tên tự viện cũng có nhiều cách. Thứ nhất do nguồn thiết lập, như do quan phủ kiến lập thì gọi là "quan tự", còn do tư nhân dinh tạo thì gọi là" Tư tự ". Thứ hai do thành phần cư trú tu hành, như do Tăng thì gọi là "Tăng tự", còn do Ni thì gọi là "Ni tự", nhưng tập quán thường hay gọi là "Ni viện".
MC3: ................ / ĐK: ..................
Về sau, các tự viện ngoài tên gọi còn gọi phụ thuộc vào ngọn núi mà ngôi chùa tọa lạc, vì buổi ban đàu tự viện hay kiến lập trên núi. Thường thì người ta gọi tên chùa kèm theo cả tên núi. Nếu chùa chỉ xây dựng tại đồng bằng thôi thì người ta cũng cố kêu kèm theo tên ngọn núi nào đó trong vùng.
Quan hệ giữa chùa chánh và các chùa phụ cùng một hệ phái rất mật thiết. Tự viện thừa truyền căn bổn pháp mạch của Tổ Sư hay gọi là "Bổn tự" hay "Tổ đình". Chùa của các thuộc hạ cùng môn phái gọi là.
"Mạt tự" hay "Mạt sơn". Trong một vùng phụ cận nơi chùa chánh tọa lạc, các chùa nhỏ cùng môn phái gọi là "Tử viện", "Chi viện ", "Tự trung", "Tự nội", "Tháp đầu". Tháp đầu nguyên chỉ mộ tháp thờ Tổ sư và thường ở mộ tháp này người ta xây một chùa nhỏ để thờ phượng Tổ sư, vì thế ngôi chùa nhỏ này gọi là "Tháp đầu". Chùa nhỏ cùng môn phái thiết lập nơi xa nhưng không đặt ra chức trụ trì thì gọi là "Thông phường", "Thông tự", "Chi phường", "Kiến đái sởi", "Quải sở".
Phàm đất đai của nhà chùa do đàn việt hỉ cúng để duy trì sinh hoạt của tự viện và bổ sung lương thực, gạo thóc cho Tăng Ni ở tu học gọi là "Tự lãnh". Chế độ tự lãnh này khởi nguyên từ Ấn Độ, là một trong Tam Bảo vật. Vì tuy người xuất gia tài sản chỉ có "Tam y, nhất bát" thanh tịnh tự hoạt, nhưng những của thường trụ cho đại chúng như ruộng vườn, rừng rẫy thì không bị đức Phật ngăn cấm. Ngay hồi đức Phật còn tại thế cũng được các trưởng giả cúng dường tinh xá Trúc Lâm, tinh xá Kỳ Viện để hộ trì Tăng chúng thân tâm an ổn để tinh cần tu học.
Ngày nay, trong thực tế chùa miếu được gọi bằng tiếng Hán Việt phổ thông nhất là "Tự", "Quán", "Am", "Viện" mà thế tục thường có quan niệm chỗ ở tu hành của Tăng chúng là "Tự", nơi cư trú của đạo sĩ là "Quán", chỗ ở tu hành của Ni chúng là "Am", nơi cư trú tu lập của nữ đạo sĩ tức đạo cô là "Viện".
Source: Tập Văn Thành Đạo (Thiền Viện Vạn Hạnh)
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
________________________________________
Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ............. thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ngày mai chúng ta sẽ có ĐỀ ÁN MÙA VU LAN (tt) do TT Giác Đẳng hướng dẫn, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya
mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)
Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.
<< Home