<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://www.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d12421254\x26blogName\x3dB%C3%A0i+%C4%90%E1%BB%8Dc+c%E1%BB%A7a+MC\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://baidocmc.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://baidocmc.blogspot.com/\x26vt\x3d9116706110527376988', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe" }); } }); </script>

Thứ Năm, tháng 5 19, 2005

Bài Đọc ngày thứ 5 của MC

Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
Con .Khanh Van đọc (.Hat Cat điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 19 tháng 05. năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.

Kính thưa quý vị chúng ta sẽ tiếp tục trong Tuần Lễ Cảm Niệm Ân Đức Phật
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:

(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(MC của phần I: Khanh Van đọc (.Hat Cat điền khuyết)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Chương trình hôm nay với chủ đề : Đức Phật Qua Cái Nhìn Đồng Dị Giữa Các Tông Phái Phật Giáo do Dharma10

Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

******************************

(Phần 6: Khanh Van đọc / đk:Chanh Hanh)

Những Khác Biệt Về Lịch Sử

Khi so sánh về những đồng dị giữa các tông phái Phật giáo cần ghi nhở những điểm sau:

a. Phần lớn các học giả phân Phật giáo làm 3 hệ phái chính: Nam Tôn (Nguyên Thủy), Bắc Tôn (Đại Thừa), Mật Tôn (Kim Cang Thừa).

b. Đối với nhiều nhà nghiên cứu thì Đại Thừa, Kim Cang Thừa là một. Tại Trung Hoa và Nhật Bản Mật Tông còn được biết đến là Chơn Ngôn Tông

c. Cái gọi là Tiểu Thừa (những người chỉ tu cho mình không có hạnh lợi tha) chỉ là một hư cấu của kinh điển Phật Giáo Đại Thừa trên thực tế không có một tông phái nào tồn tại trong dòng lịch sử Phật giáo với tôn chỉ như vậy. Vì không biết về lịch sử và Tam Tạng Pali nên nhiều học giả Đại Thừa lầm tưởng Nam Tông là Tiểu Thừa. Phật giáo Nam Tông (đúng ra là Theravada) truyền vào Tích Lan từ thời vua Asoka (A Dục) lúc bấy giờ chưa xuất hiện của từ Đại Thừa, Tiểu Thừa (2 từ nầy chỉ xuất hiện vào thế kỷ I Tây Lịch nghĩa là 500 năm sau khi Phật diệt)

d. Phật giáo Đại Thừa trên thực tế bao gồm tất cả nhánh rẽ phát triển tách khỏi Phật giáo nguyên thủy nên bao gồm nhiều tông phái. Chính vì vậy không thể nói quan điểm của Tịnh Độ Tông là tiêu biểu cho Phật giáo Đại Thừa hay một tông phái nào khác của nghành Phật giáo phát triển.

e. Nên cẩn thận với những từ đại thừa, tiểu thừa, nam truyền, bắc truyền trong kinh điển Đại thừa vì đôi khi chỉ cho những tông phái nằm trong Phật giáo Đại Thừa thí dụ như luật tông tại Trung Hoa được xem là Tiểu Thừa. Thiền Tông ở Nam Trung Hoa cũng gọi là Nam Tông hay Nam Phái.

f. Để tiện việc ghi chép người ta thường dùng những sau: Đại thừa hay Bắc Tôn hoặc Bắc Truyền với kinh điển gọi là Bắc tạng; Nguyên Thủy hoặc Nam Tôn hay Nam Truyền với kinh điển gọi là Nam Tạng.

g. Sự so sánh ở đây là so sánh giữa Tam Tạng Pàli và các bộ phái phát triển.

(Phần 7: Chanh Hanh đọc / đk: Sangkhaly)

Dưới dây là một số dị biệt về lịch sử giữa kinh điển Pàli và Phật giáo Bắc Truyền. Nên nhớ một điều là đa số học giả Việt Nam trong hơn 50 năm qua ảnh hưởng bởi phong trào chấn hưng Phật giáo, tổ chức Liên Hữu Phật Giáo Thế Giới và kinh điển Pàli ấn hành phổ biến bởi Đại Học Vạn Hạnh nên thường dùng những con số theo Nam Truyền hơn là thuần tuý Phật giáo Trung Hoa. Có lẽ vì lý do trước đó thiếu sự nhất quán về sử liệu nên một số học giả Việt Nam như Phan Kế Bính, Nguyễn Duy Cần ... có những sai lầm nghiêm trọng khi đề cập đến lịch sử Đức Phật.

a. Theo kinh điển Bắc Truyền thì khi thái tử Sĩ Đạt Ta chào đời trong vườn Lâm tì ni thì Ngài đã thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác từ vô lượng kiếp quá khứ, kiêp nầy chỉ là một kiếp thị hiện trong vô số mà thôi. Theo Nam Truyền thì Phật vốn là một chúng sanh khỏi sanh đại nguyện tự giác, giác tha để rồi sau nhiều kiếp tu tập sanh ra vào kiếp chót với thân Thái tử Siddhatha, xuất gia thành đạo vô thượng dưới cội bồ đề. (Điểm thú vị là mà dù Phật giáo Đại thừa có quan niệm "pháp thân thường trụ" nhưng cũng phân chia tam thế Phật: quá khứ, hiện tại và vị lai.)

b. Theo kinh điển Pali thì Đức Thế Tôn có thời gian sống trong cung vàng khá lâu. Thái tử Siddhattha kết hôn với công nương Yasodhara (Da Du Đà La) năm 16 tuổi, đăng quang vương vị trong năm đó nhưng chỉ là danh nghĩa vì tất cả điều hành việc nước đều trong tay vua cha. Sống cuộc sống gia đình 13 năm, Thái tử rời hoàng cung năm 29 tuổi. Sáu năm tiếp theo trắc nghiệm nhiều pháp tu đặc biệt là pháp khổ hạnh rồi cuối cùng chọn đường trung đạo và thành Phật năm 35 tuổi. Đức Thế Tôn hoằng đạo 45 năm, viên tịch năm 80 tuổi.

Theo Phật giáo Đại Thừa thì Thái tử Sĩ Đạt Ta xuất gia lúc còn rất trẻ, năm 19 tuổi, thành đạo năm 31 tuổi, trụ thế 80 năm. Trong suốt 12 năm từ lúc rời hoàng cung đến lúc thành đạo không nói rõ làm gì ngoài sáu năm khổ hạnh.

c. Theo kinh điển Pali thì ngay khi từ bỏ khổ hạnh trở về con đường trung đạo chỉ có một đêm dưới cội bồ đề là Đức Từ Phụ thành đạo Chánh giác. Sau đó Ngài lưu lại khu vực quanh cội bồ đề bảy tuần lễ quán chiếu và an hưởng quả giải thoát. Ngày thành đạo là Rằm tháng Vesakh vào mùa xuân giống như đản sinh và niết bàn. Theo Phật giáo Đại Thừa thì sau khi từ bỏ khổ hạnh Ngài tham thiền 49 ngày sau đó thành đạo. Ngày vía thành đạo là mùng Tám tháng Chạp, đản sinh là mùng Tám tháng Tư và nhập niết bàn là mùng Tám tháng Hai.

d. Theo kinh điển Pali thì Đức Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc giả, Sarnath. Chuyển Pháp Luân là thuyết bài pháp đầu tiên nên chỉ có một. Theo Phật giáo Đại Thừa thì có ba lần chuyển Pháp Luân. Lần chuyển pháp luân lần đầu là thuyết kinh Hoa Nghiêm dưới cội bồ đề cho Long vương (Bộ kinh nầy được Long Vương thuật lại cho Ngài Long Thọ 500 sau khi Phật nhập diệt). Lần thứ hai chuyển pháp luân tại Lộc Uyển khởi giảng pháp tạng Tiểu thừa. Lần thứ ba chuyển pháp luân tại Linh thứu khởi giảng pháp tạng Mật Tông (Kim Cang Thừa).

e. Theo kinh điển Pali thì sự thành đạo dưới cội bồ đề của Đức Phật là quả vị viên giác do vậy suốt 45 năm sau đó sự thuyết pháp của Ngài đều nhất quán bài kinh Chuyển Pháp Luân. Tuỳ theo mỗi cá nhân trình độ những bài pháp thoại có khác biệt nhưng không phân chia thành tông hay thừa. Trong Tam Tạng Pali không có bất cứ đề cập nào về tông phái chỉ có phân lời Phật dạy làm hai là dhamma hay pháp và vinaya hay luật. Luật chỉ cho những học giới dành cho người xuất gia. Tất cả những phần còn lại gọi là pháp.

Theo Phật giáo Đại Thừa thì Đức Phật thuyết pháp phân biệt đại thừa cho hàng thường căn và tiểu thừa cho hàng độn căn. Tuy giáo lý Tiểu thừa cũng do Phật thuyết nhưng ai tin theo sẽ trở thành tiêu nha bại chủng. Mặc dù cũng là thuyết pháp trong một ngôi chùa nhưng những kinh Đại thừa như Kinh A Di Đà chẳng hạn, không được biết bởi hàng Tiểu thừa vì căn cơ thấp chính vì thế những kinh nầy chỉ có trong giáo lý Đại Thừa. (Phật giáo Thượng Toạ Bộ được xem là rất bảo thủ trong việc bảo lưu giáo điển nhưng không có những kinh Đại Thừa vì vậy cũng bị coi là Tiểu Thừa). Một điều cần lưu ý là một danh tăng Trung Hoa, Ngài Trí Khải Đại Sư đưa ra quan điểm "ngũ thời thuyết giáo" phân 49 năm hoằng đạo của Phật thành năm thời kỳ: Thời Hoa nghiêm, thời A Hàm, thời Phương Đẳng, thời Bát Nhã, thời Pháp Hoa. Thời A hàm thuộc Tiểu Thừa kéo dài 20 năm. Thời Phương Đẳng hổn hợp cả hai đại thừa và tiểu thừa. Ba thời còn lại thuộc đại thừa. (Mặc dù đông đảo những nhà học Phật Đại thừa dùng cách phân chia nầy nhưng trên thực tế đây là ý kiến của vị tổ sư Thiên Thai Tông, không tìm thấy trong các kinh điển Đại thừa khác)

f. Theo kinh điển Pali thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có 2 thượng thủ thinh văn là Ngài Sariputta (Xá Lợi Phất) là bậc đệ nhất trí tuệ được xem là có sở trường hướng dẫn những đện tử Phật trong bước đầu tu tập trong lúc vị thượng thủ thinh văn thứ hai là Ngài Moggalana (Mục Kiền Liên) là bậc đệ nhất thần thông có sở trường hướng dẫn những người đi những bước còn lại trong pháp hành. Những đệ tử khác của Phật có sở trường của mình nhưng kinh điển Pali không đưa ra con số giới hạn như Thập Đại Đệ Tử như Phật giáo Bắc Truyền.

Về phương diện nầy, Phật giáo Đại Thừa không nhất quán. Hai đệ tử tả hữu của Phật là Ngài Văn Thù và Phổ Hiền chỉ có ghi một số lời nguyện chứ không có tiểu sử rõ ràng (theo Thiền sư Nhất Hạnh thì bốn vị Văn Thù, Phổ Hiền, Địa Tạng, Quan Thế Âm tượng trưng cho bốn đức lớn của Phật hơn là nhân vật lịch sử vì không có tư liệu rõ ràng). . Ngài Xá Lợi Phất đôi khi được ghi nhận là đệ nhất trí tuệ (như trong danh sách thập đại đệ tử hay là người được Phật giảng giáo lý cao siêu như trong Kinh Bát Nhã với tên âm và dịch là Xá Lợi Tử) nhưng đôi lúc được liệt vào hàng tiểu thừa độn căn như trong kinh Duy Ma Cật. Nhưng nói chung thì theo Phật giáo Đại thừa phần lớn Ngài Xá Lợi Phất thuộc hàng thinh văn Tiểu Thừa trong lúc Ngài Mục Kiền Liên Bồ Tát thuộc hàng Đại thừa vì có đức hiếu hạnh như Kinh Vu Lan Bồn.

g. Theo kinh điển Pali thì Đức Phật là bậc toàn giác nghĩa là tự mình giác ngộ rồi tuyên thuyết chánh pháp. Nhiều người nghe pháp đạt cứu cánh rốt ráo giải thoát - sự thành tựu nầy được xem là điều tự nhiên như các thánh đệ tử Phật. Những người nầy được gọi là savaka - nhờ nghe sự khai thị của Phật toàn giác mà tu tập giác ngộ cũng dịch là thinh văn (người biết lắng nghe). Những vị nầy có thể hoặc không có thể giảng giải đạo lý rộng rãi. Mặc dù không thù diệu về khả năng tự giác, giác tha như Phật toàn giác nhưng các vị thánh đệ tử thuộc hàng Tăng Bảo cũng là ứng cúng (Thật ra trong một số bài kinh trong giáo điển Pali thì cúng dường vô phân biệt đến tứ phương Tăng chúng phước báu thù thắng hơn cúng dường một vị Phật toàn giác). Không có đoạn nào trong kinh Pàli ghi là các thánh đệ tử Phật ích kỷ không muốn độ sanh.

Trong kinh điển Đại thường thì hàng thinh văn đáng khinh miệt vì hạ căn ích kỷ chỉ biết tu cho mình, trong bồ tát giới của Phật giáo Đại thừa cấm giao tiếp và lễ bái hàng thinh văn tiểu thừa. Đức Phật có hai hội chúng là hội chúng thinh văn và hội chúng bồ tát. Theo Phật giáo Đại Thừa thì tôn ý của Đức Phật là các đệ tử phải phát nguyện tiếp tục tu tập để thành Phật toàn giác như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó là hạnh nguyện của chư vị bồ tát. Những ai đạt đến cứu cánh rốt ráo giải thoát qua sự khai thị của Đức Phật đều là không có đại nguyện.

h. Theo kinh điển Pali thì Đức Phật xuất hiện ở đời như một đoá hoa hãn hữu trong vô lượng kiếp nở một lần. Trong một thế giới mỗi lần chỉ có một vị Phật toàn giác. Chư Phật toàn giác đồng đẳng về tánh, tướng, tuệ giác và bi nguyện. Chư Phật ra đời rồi viên tịch nên có Phật quá khứ, hiện tại, vị lai.

Theo Phật giáo Đại thừa thì chư Phật Chánh Đẳng Chánh Giác không đồng đẳng về bi nguyện và công hạnh. Do vậy Đức Phật Thích Ca thường giới thiệu các đệ tử niệm những vị Phật khác Như Đức Phật A Di Đà hay Đức Phật Dược Sư.. và niệm danh hiệu những vị Phật ấy để vãng sanh về cảnh giới của những vị nầy. Về thời gian thì Phật giáo Đại Thừa cũng ghi nhận có tam thế chư Phật: quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng với quan điểm "pháp thân thường trụ" thì sự phân biệt tam thế không có giá trị gì như Đức Phật A Di Đà được xem là Phật quá khứ (nhưng chưa đi qua), Đức Thích Ca là Phật hiện tại (dù thành Phật vô lượng kiếp trước), Đức Di Lặc là Phật vị lai ( nhưng đã được thờ). Kinh Hoa Nghiêm dung hơp tất cả dị biệt bằng sự mô tả thế giới Hoa Tạng mà tất cả chư Phật chỉ là một cho dù cảnh giới nào, thời gian nào chỉ là sự biến hiện của lăng kính tâm thức. Quan niệm nầy mang tính triết học hơn là sử liệu.

Lược trích từ Những Dị Biệt Giữa Các Tông Phái Phật Giáo - Tỳ Khưu Giác Đẳng (lược bỏ phần chú thích xuất xứ vì khuôn khổ sinh hoạt của room Diệu Pháp)

***********************************

8. Chư Tăng thảo luận

**********************************

(Phần 9 Chuyện kể: Gioi Huong đọc / đk:Nguonduchanh)

Pancasikha, con của Càn Thát Bà vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi Indasala. Khi đến xong, Pancasikha đứng lại một bên và suy nghĩ: "Ta đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ được Ngài nghe".

Ðứng một bên, Pancasikha, con của Càn Thát Bà gảy cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:

Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Ðã sanh nàng thiện nữ,
Nguồn hạnh phúc của ta,
Như gió cho kẻ mệt.
Như nước cho kẻ khát,
Nàng là tình của ta.
Như pháp với Ứng Cúng,
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Như đồ ăn kẻ đói,
Thiên nữ với nước mắt.
Hãy dập tắt lửa tình!
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ nước mát,
Có cánh sen, nhụy sen.
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn,
Ta điên vì ngực nàng,
Hành động ta rối loạn.
Tâm ta bị nàng trói,
Di chuyển thật vô phương,
Rút lui cũng bất lực,
Như cá đã mắc câu.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Trong cánh tay của nàng!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền.
Hãy ghì chặt lấy ta,
Thiện nữ! Ta van nàng!
Ôi Hiền nữ suối tóc,
Ái dục ta có bao!
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Mọi công đức ta làm,
Dâng lên bậc La Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Vị Thích tử thiền tu,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Cũng vậy ta cầu nàng!
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng.
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược nhập một với nàng,
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Như ta-la sanh quả,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!

Khi được nghe vậy, Thế Tôn nói với Pancasikha, con của Càn Thát Bà:

- Này Pancasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa điệu với huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, do vậy huyền âm của Ngươi không thêm mầu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi. Này Pancasikha, Ngươi học tại chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A La Hán, đến ái dục như vậy?

Kinh Đế Thích Sở Vấn - Trường Bộ Kinh - Bản Dịch của HT Thích Minh Châu

*********************************

(Phần 10:HVU đọc / đk:Nhu Phuc.)

Những Khác Biệt Về Quan Niệm

Nam và Bắc Tạng có một số điểm nhìn khác nhau về Thế Tôn. Chính điểm nhìn khác nhau này mở lối cho sự phát triển của Phật giáo về sau và làm phong phú thêm kho tàng văn học Phật giáo.

Nguyên thủy, Thượng tọa bộ và Ðại chúng bộ ghi nhận rằng, Thế Tôn và các Thánh đệ tử A-la-hán đều giải thoát khỏi sanh tử, nhưng vẫn có một số điểm phân biệt giữa Ngài và cách Thánh đệ tử ấy. Ngài là Giáo chủ duy nhất, là một Thế Tôn duy nhất trong hiện kiếp, còn các đệ tử của Ngài chỉ có thể chứng A-la-hán, thực hiện con đường giải thoát. Nguyên thủy và Thượng tọa bộ ghi sự biểu hiện của Thế Tôn như một nhân vật lịch sử, rất người. Kiếp này là kiếp sau cùng Ngài thành Phật với sự nổ lực khám phá của riêng Ngài. Ngài sống một cuộc sống rất gần gũi con người và đầy tình người, ngoại trừ lòng từ bi vô hạn và trí tuệ ngời sáng vô biên của Ngài.

Hình ảnh Thế Tôn trong Nikàya và Agama là hình ảnh của một khất sĩ đi chân không trong suốt bốn mươi lăm năm giáo hóa, rất dung dị. Có lần Ngài đi hoằng hóa một mình và trú mưa một đêm trong chòi lá của người thợ làm đồ gốm. Tại đây, Ngài đã chuyện trò thân mật với một thanh niên cũng vào trú mưa, du sĩ Pukkusati, đã nói pháp, khích lệ giúp chàng chứng đắc quả Bất Lai ngay tại chỗ (Trung bộ Kinh III, Kinh Giới Phân Biệt).

Một lần khác, ngài cũng lâm bệnh nặng như các đệ tử của Ngai. Bấy giờ Ngài yêu cầu Tôn giả Cunda nói lại pháp Thất Giác Chi cho Ngài nghe, pháp hỷ sanh khởi và Ngài lành bệnh ngay (Tăng Chi Bộ Kinh IV và Tương Ưng IV).

Những lúc không có thị giả theo, Ngài tự mình nhặt lá khô làm thảo tọa đề ngồi. Lúc trọng tuổi, có nhiều khi nhức mỏi thân thể, Ngài ngưng nói giữa thời thuyết pháp và nhờ Tôn giả Xá-lợi-phất nói tiếp. Ðoạn, Ngài ngã lưng xuống nghỉ tại chỗ

Có nhiều lần Ngài ngồi trong tư thế nhập định uy nghi đến nỗi vua trời Ðế Thích không dám đến yết kiến Ngài để thọ Pháp. Nhưng chính lúc bấy giờ, một thanh niên Càn-thác-bà đã ôm đàn tỳ bà ngồi gảy tại một gốc cây gần Ngài và hát lên tiếng hát của tình yêu. Ngài đã bật cười, trò chuyện với thanh niên và hỏi chàng do đâu mà chàng có những lời lẽ nối kết được tình yêu và chân lý (Trường Bộ Kinh III, Phẩm Ðế Thích Sơ Vấn).

Ngài đã tự mình đi đến nói chuyện với những nông dân và chí hướng sống tốt đẹp cho họ.

Ngài không chỉ giảng dạy giáo lý giải thoát mà còn rất quan tâm đến đời sống gia đình, xã hội của các cư sĩ và hạnh phúc tương đối của họ. Ngài đã dạy thanh niên Singalà về sáu mối tương hệ xã hội: tương hệ giữa cha mẹ và con cái, thầy và trò, vợ và chồng, chủ và thợ (người giúp việc), cá nhân với bà con láng giềng, tu sĩ và cư sĩ (Trường Bộ Kinh 31).

Ngài đã dạy cư sĩ Koliya Dìghajànu (Tăng Chi Bộ Kinh, tập IV), người muốn sống với vợ con, trang điểm và tiền của, thế nào để sống có hạnh phúc gia đình, bằng những lời lẽ rất là thực tiễn như là phải giỏi nghề, siêng năng, giỏi điều hành công việc, biết chi thu hợp lý, biết đầu tư, điều hòa sức khoẻ và tâm lý, làm bạn với người thiện. Về hạnh phúc tương lai, Ngài dạy về Tín, Thí, Giới và Tuệ.

(Phần 11:Nguonduchanh đọc / đk:Gioi Huong)

Ngài cũng dạy vua chúa, cấp lãnh đạo về biện pháp cải thiện kinh tế xã hội, bảy điều kiện làm cho một xã hội cường thịnh và mười pháp để trở thành một nhà lãnh đạo nhân dân tốt (Tăng Chi IV, Chương 7 và 10 Pháp). Ngài đã tự thân ba lần cản ngăn một cuộc chiến xảy ra giữa hai dân tộc Sakyas và Koliyas (Tăng Chi IV, Chương Bảy Pháp).

Ngài đã giáo dục đem lại lợi ích vì hạnh phúc của chư Thiên và loài người. Ngài luôn luôn trung thành với "Giáo hóa thần thông" (bằng thân giáo và khẩu giáo) và tránh vận dụng đến "Thần túc thông" hay "Tha tâm thông".

Chỉ có Tiểu Bộ Kinh đề cập đến những trường hợp Ngài sử dụng đến thần thông và nói đến các tiền thân Bồ Tát của Ngài. Có lẽ đây là cái mầm của Bồ-tát đạo trong Bắc tạng về sau.

Thái độ giáo lý thực tiễn và đầy tính Người, một lần khác, được biểu hiện qua một mẫu chuyện kể ở Nikàya và Agama, rất phổ biến trong giới Phật tử: Một lần, một tu sĩ ngoại đạo biểu diễn thần thông đi nổi trên mặt nước và thách Thế Tôn làm như thế. Thế Tôn ôn tồn hỏi: "Ông tu luyện bao lâu mới có thể vượt qua sông với thần thông ấy" -"Mất ba mươi năm", Tu sĩ ngoại đạo trả lời. -"Ta chỉ mất có ba xu đi đò là qua được bên kia bờ," Thế Tôn nói.

Ở Ðại chúng bộ, hình ảnh của Thế Tôn lại được Thánh hóa, siêu nhân hóa từ khi nhập thai cho đến khi thị tịch. Ngài đã là vị Phật ở cung trời Ðâu-suất, còn tất cả nhữn gì xảy ra ở trần thế chỉ là "thị hiện". Vì vậy mà mọi chuyện ở Ngài đều mang nghĩa tuyệt đối, thanh tịnh, vô lậu. Cho đến những lời nói thông thường của Ngài cũng là những lời Pháp có diệu lực khiến các cảnh giới khác nhau đều có thể nghe và hiểu được theo cách của mình. Ðiều này, Kimura Taiken có bàn đến cuốn "Ðại Thừa Tư Tưởng Luận" (Bản dịch của Thượng tọa Thích Quảng Ðộ, Tu thư Vạn Hạnh, 1969, Sài gòn). Như thế, Ðức Thế Tôn trong Nguyên Thủy và Thượng tọa bộ được trình bày như là "ứng thân", trong Ðại chúng bộ được trình bày như là vừa "Pháp thân" vừa "Báo thân".

Bắc tạng, như ở Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, v.v... Ðức Thế Tôn xuất hiện giữa vùng hào quang kỳ diệu, giữa thần thông biến hóa vô cùng.

Bắc tạng không cho rằng chỉ có một đức Thế Tôn trong hiện kiếp, mà bằng nỗ lực của riêng mình, mọi đệ tử của Ngài có thể thành Phật trong hiện tại. Ðức Phật không phải mới thành Phật, mà đã thành Phật từ vô lượng kiếp trước, lâu xa lắm. Ở trên đời này, Ngài chỉ thị hiện Ðản sanh và Niết-bàn. Ngài không chỉ thuyết pháp ở vùng Trung Ấn, mà còn thuyết Pháp ở các cung trời, cõi Phật. Thính chúng của Ngài gồm cả mười phương chư Bồ-tát.

Dù hình ảnh Thế Tôn xuất hiện khác nhau dưới ngòi bút của các nhà Bắc truyền và Nam truyền, điểm gặp gỡ quan trọng nhất giữa các bộ phái Phật giáo và giữa các thời kỳ phát triển Phật giáo là: Thế Tôn ra đời chỉ vì hạnh phúc cho chư Thiên, loài Nguời và mọi loài chúng sanh, chỉ dạy con đường ra khỏi sanh tử, khổ đau, cứu cánh Niết bàn, giải thoát. Ngài thuyết pháp giáo hóa ở đời trong bốn mươi lăm năm và giảng dạy những giáo lý nền tảng: Duyên khởi, Vô ngã, Tứ đế, Bát Thánh đạo, Ngũ uẩn, Nhân quả và giáo lý của Ngài luôn được xây dựng trên Giới, Ðịnh, và Tuệ./.

Trích từ Phật Học Khái Luận - Thích Chơn Thiện

***********************************

12. Chư Tăng thảo luận

(13. Nhạc: anitya mo)

Lễ Phật Bảo - Lời trích từ: Dâng Hương - Nghi Thức Tụng Niệm GHTGNTVN - Nhạc của Võ Tá Hân

*********************************

(Phần 14:Duong Tieu đọc / đk:anitya.)

Những Khác Biệt Về Thờ Phượng

Trong truyền thống Phật giáo Nam Truyền với quan niệm chư Phật toàn giác đồng đẳng tánh, tướng, tuệ giác và bi nguyện nên thờ một Đức Thích Ca Mâu Ni kể như là chung cho chư Phật.

Vì không có hình thức thờ nhiều Phật và bồ tát nên những hình tượng của Đức Phật Thích Ca rất phong phú trong nhiều dáng diệu như đi, đứng, ngồi, nằm. Đức Phật thường mặc y đơn giản. Tượng Phật thường ngồi trên bảo toạ hơn là toà sen.

Một vài nơi có thờ tượng hai vị thượng thủ thinh văn là Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên để làm trang nghiêm Phật đài.

Người Phật tử theo truyền thống Nam Truyền thường thờ Phật như một biểu tượng do vậy kim thân, bảo tháp, cội bồ đề, xá lợi đều mang tính năng trợ duyên cho sự thành tâm'

(Phần 15:Tinh Tan đọc / đk:Khanh Van)

Phật giáo Bắc Truyền thờ nhiều vị Phật và Bồ Tát. với pháp phục và tư thế không giống nhau. Thường thì hình tượng với y, và pháp khí trang trí nhiều màu sắc.

Tịnh độ tông thì thờ "Tây Phương Tam Thánh" ( là Đức Phật A Di Đà, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Đức Đại Thế Chí Bồ Tát. Theo Tịnh Độ Tông hai vị bồ tát nầy theo phò Đức A Di Đà. Những tông phái khác kể cả Thiên Thai Tông thì Quán Thế Âm thường trụ ở cõi ta bà nầy. Đức Đại Thế Chí ít khi được nói đến về hanh nguyện)

Thiền Tông thì thờ Đức Phật Thích Ca với tả hữu là Ngài Ca Diếp và A Nan. Thiền Tông ghi rằng Ngài Ca Diếp là đệ nhất tổ được truyền tâm ấn từ Đức Phật, Ngài A Nan là đệ nhị tổ. Thiền tông luôn luôn thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma phía sau bàn Phật Ngài được xem là Sơ Tổ của thiền tông Trung Hoa.

Phật giáo Đại Thừa Việt Nam trong các thờ phượng có sự khác biệt với Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa. Tại Việt Nam thì Đức Phật A Di Đà và Tổ Đạt Ma thờ chung một chùa nhưng tại Trung Hoa tuyệt đối không. Ảnh hưởng Phật giáo Nam Truyền trong gần thế kỷ qua, Phật giáo Đại Thừa tại Việt Nam thường có một chỗ trang trọng thờ Đức Phật Thích Ca trong chánh điện trong lúc tại Trung Hoa nhiều ngôi chùa không có tượng Phật Thích Ca. Những tranh tượng trong dân gian tại các quốc gia Phật giáo Đại Thừa ngoại trừ Việt Nam thường rất hiếm hoi tượng Phật Thích Ca.

Phật giáo Mật Tông Tây Tạng thì thờ Đức Phật Dược Sư và Đức Phật Tỳ Lô Giá Na một cách nổi bật, tiếp theo là tượng Tara. Đức Phật A Di Đà tại Tây Tạng không phổ thông như Trung Hoa. (Phật tử Tây Tạng thường nguyện sanh trở lại cõi ta bà trong thân các vị Tuku hơn là vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Sự thờ phượng trong Phật Giáo Đại Thừa tạo thành một nền nghệ thuật cực kỳ phong phú và tinh vi tạo thành một di sản vô giá cho nên văn minh nhân loại.

Lược trích từ Những Dị Biệt Giữa Các Tông Phái Phật Giáo - Tỳ Khưu Giác Đẳng

*****************************

16. Chư Tăng thảo luận

*****************************

(Phần 17. Thơ: Sangkhaly/ đk:Chanh hanh )

Tượng Khuya
Con ngồi nhìn Phật giữa khuya
Trăng xưa Linh Thứu
Chợt về bên hiên
Trước sau
Một nụ cười hiền
Phật bao dung hết
Muôn niềm phàm tâm

Toại Khanh

*******************************

18. TT Giác Đẳng thông báo chương trình ngày mai

Ngày mai, Thứ Sáu 20 - 5 - 2005: Những Điều Ít được biết về Đức Phật

************************************

Lời cảm tạ (TC:Nhu Khanh/.anitya điền khuyết )

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!

Con Nhu Khanh thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng. Nguyện công đức đã làm Kết duyên lành giải thoát Nguyện hồi hướng chư thiên Hàng thiện thần hộ pháp Nguyện các bậc hữu ân Ðồng thừa tư công đức Nguyện chánh pháp trường tồn Chúng sanh cầu giải thoát Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
***************************************
mở kinh tụng và nhạc, (anitya)


Phần đóng room: Nhu Khanh
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn gặp lại ngày mai cũng vào giờ này. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật