Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay Thứ hai, ngày 04 tháng 12 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 8:00 đến 10:30 tối, giờ Houston 7:00 đến 9:30 sáng, giờ NY từ 8:00 đến 10:30 sáng, giờ Cali 5:00 đến 7:30 sáng, giờ Paris 2:00 đến 4:30 chiều, giờ Sydney 12:00 tối đến 2:30 sáng.
Kính thưa quý vị, lớp Lịch Sử Phật Giáo hôm nay chúng ta sẽ học bài A - Dục Vương và sự phát triển của Phật Giáo _ II - SỰ TIẾN TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO do NS Liễu Pháp giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya
(Đại Đức Minh Hạnh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________
(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Bài Học hôm nay:
---o0o---
A - Dục Vương và sự phát triển của Phật Giáo
I - SỰ TIẾN TRIỂN CỦA PHẬT GIÁO
Tác giả P. V. Bapat
Việt dịch Hữu Song Nguyễn Đức Tư
____________
I. Đại lược
Trong các thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau khi Đức Phật diệt độ (Nirvana), thật khó mà phân biệt được đạo Phật với nhiều giáo phái khổ hạnh khác. Rõ ràng là đến thời kỳ Maurya, Phật giáo mới nổi lên thành một thứ tôn giáo riêng biệt với những tiềm năng phát triển lớn lao. Nhưng cho đến thời kỳ đầu của giai đoạn này, hoạt động của Phật giáo cũng chỉ giới hạn ở các nước Ma-kiệt-đà (Magadha) và Kiều-tất-la (Kosala). Các cộng đồng tu sĩ nhỏ có thể cũng đã có mặt ở phía Tây tại Mathura và Ujjayini. Trong thời gian diễn ra Nghị hội thứ hai tại Tỳ-xá-lị (Vaisali) khoảng một trăm năm sau Đức Phật, thư mời đã gửi đến các cộng đồng tu sĩ ở những nơi xa như Patheya, Avanti, Kausambi, Sankasya và Kanauj. Mathura đã trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng những năm đầu của thời kỳ cực thịnh Maurya.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I. Đại lược bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
II. Nội dung chính
A. Lịch sử Giáo hội Phật giáo trong thời kỳ này xét theo các biểu hiện bề ngoài thì không phải là một thời kỳ yên tĩnh. Do sự bành trướng dần dần của Phật giáo và vì thiếu thông tin thường xuyên giữa những cộng đồng xa cách nhau nên Giáo hội mất dần tính thống nhất. Các ảnh hưởng tại chỗ từ từ tác động trên cách xử sự của các cộng đồng, uốn nắn họ theo những kiểu khác nhau. Điều này cuối cùng đã làm nảy sinh ra nhiều trường phái khác nhau. Dưới triều đại A-dục vương Giáo hội hẳn đã bộc lộ các triệu chứng phân hóa và các bia ký của A-dục vương cho chúng ta biết là nhà vua đã áp dụng những biện pháp đặc biệt để cứu vãn sự thống nhất của Giáo hội.
B. Sự bảo trợ của A-dục vương tất nhiên đã góp phần truyền bá đạo Phật không chỉ trong vương quốc của ông mà còn đến tận những vùng đất xa. Có thể hiểu được rằng sau sự cải tổ Giáo hội Ma-kiệt-đà tại Nghị hội thứ ba và với sự hợp tác của chính nhà vua, đã có những cố gắng truyền bá đạo Phật đến những quốc gia xa xôi. Hoạt động truyền giáo ban đầu có thể không thành công nhiều để gây sự chú ý của nước ngoài nhưng các điều được ghi khắc lại cùng các tượng đài Phật giáo trong các thời kỳ sau A-dục vương đã chứng minh rõ ràng bên trong lãnh thổ của Maurya các hoạt động ấy đã thành công lớn.
C. Đến các đời vua Sunga thì Phật giáo mất đi sự bảo trợ. Các tài liệu Phật giáo đều mô tả Pusyamitra Sunga như là một người ngược đãi tín đồ Phật giáo. Tuy nhiên, sự phá hoại Phật giáo nhất thời của Pusyamitra không đạt hậu quả vì dân chúng đứng về phía Phật giáo. Sức mạnh của quần chúng là nguồn gốc của sự tiến triển lớn lao mà Phật giáo đã thực hiện được dưới thời Sunga-Kanva. Điều này được thấy rõ qua số lượng tặng phẩm to lớn của của các tư nhân dành cho Phật giáo được ghi chép trên các đài kỷ niệm thời ấy. Một số công trình Phật giáo nổi tiếng như bảo tháp Bharhut, hầm Karle và bảo tháp Sanchi đều thuộc thời kỳ Sunga-Kanva và minh chứng cho sự phồn thịnh đáng kể mà Phật giáo có được vào thời ấy. Phật giáo đã phát triển từ một tôn giáo của chùa chiền thành một tôn giáo của toàn dân. Phật giáo đã trở thành một tôn giáo thờ thần mà đối tượng thờ cúng là Đức Phật cùng xá lợi của Ngài.
D. Chính vào thời này, Phật giáo đã được những người Hy Lạp ở miền Bắc hưởng ứng. Vua Menander là người vô cùng mộ đạo. Sau khi đặt kinh đô tại Sakala, ông đã có nhiều hành động sùng mộ đạo Phật. Kể từ thời vua Menander, nhiều người Hy Lạp ở Ấn Độ đã nhận đạo Phật làm tôn giáo của mình và sau đó, họ đã tham gia cúng dường cho các chùa chiền Phật giáo. Các văn bản Pali cho thấy người Hy Lạp còn tham gia vào các hoạt động truyền giáo. Chúng ta được biết rằng sau khi nước Yavana (Hy Lạp) theo đạo Phật thì Tôn giả Mục-kiền-liên Tư-đế-tu (Moggaliputta Tissa) đã đến nước này và chọn được một trưởng lão Hy Lạp là Dharmaraksita cho công việc truyền giáo. Dharmaraksita sau đó được cử đến nước Aparantakas, ông thuyết giảng Chánh Pháp thành công tại đây và ông hóa độ cho hàng nghìn người kể cả phụ nữ và các nhà quý tộc. Người Hy Lạp tại Ấn Độ cũng đã tạo nên một kiểu nghệ thuật Phật giáo mới mẻ, được gọi là Indo-Greet (Ấn Độ - Hy Lạp), phát triển chủ yếu tại Punjab và miền Tây Bắc Ấn Độ.
E. Sự phát triển nhanh chóng của Phật giáo dưới thời A-dục vương đến nhiều vùng đất nước khác nhau của Ấn Độ đã làm nảy sinh nhiều hệ phái mới Phật giáo được ghi là lên đến mười tám hệ phái. Sự phát sinh ra các hệ phái này phần lớn không phải do sự khác biệt về giáo lý mà là do yếu tố địa dư. Với sự lan rộng của đạo Phật, đã có nhiều cộng đồng được thành lập tại nhiều nơi trong nước. Vì không có sự tổ chức phối hợp nên nhiều cộng động đã nghĩ ra những cách riêng để duy trì giáo pháp. Trong vài trường hợp, sự khác biệt giữa các trường phái thật quan trọng. Đó là lý do một số trường phái đã biến mất hoặc hòa lẫn vào các trường phái khác chỉ sau một thời gian ngắn. Đại chúng bộ (Mahasanghika) trong thế kỷ thứ hai sau ngày Đức Phật nhập diệt đã nảy sinh ra tám trường phái khác nhau, trong đó nổi bật nhất là các trường phái Ekavyavaharika (Nhất thuyết bộ), Lokottaravada (thuyết Xuất thế bộ), Aparasaila (Tây sơn trụ bộ) và Uttarasaila (Đông sơn trụ bộ). Sự phân chia bắt đầu trong phái Sthaviravada (Thượng Tọa bộ) một thế kỷ sau đó. Sự phân phái đầu tiên làm nảy sinh hai trường phái - Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ) và Mula-Sthaviravada (còn gọi là Haimavata - Tuyết sơn bộ). Từ khi hình thành tại Tỳ-xá-lị, Đại chúng bộ chỉ giới hạn chủ yếu ở phía Đông rồi từ đó lan rộng ra, đặc biệt là về phía Nam. Những tín đồ của trường phái này có lẽ đã không tạo nên một cộng đồng lớn ở phía Bắc vì chỉ được nói đến trong hai câu ghi khắc mà thôi. Đại chúng bộ tạo nên một văn hệ riêng và tự cho là đã duy trì được truyền thống đích thực nhất của Phật giáo ban đầu, coi mình là dòng dõi của tôn giả Đại-ca-diếp (Mahakasyapa), người đã triệu tập Nghị hội Phật giáo thứ nhất, tại đó Giáo điển đã được kết tập lần đầu tiên cho truyền thống. Sự hiện hữu của gần như tất cả các nhánh của Đại chúng bộ tại vùng Dhanyakataka cho thấy rằng nơi đây đã trở thành thành lũy quan trọng nhất của Đại chúng bộ dưới sự bảo trợ của Satavahanas và những người kế vị ở thung lũng Krishna. Các trường phái này tiếp tục phồn thịnh cho đến thế kỷ thứ 3 hoặc thứ 4 sau Công nguyên. Các trường phái phát sinh từ phái Sthaviravada cũng đều đã để lại dấu ấn rõ ràng trong văn học và bia ký từ thời Sunga cho đến thời Kusana, và có thể nói là đã phát triển từ năm 200 trước Công nguyên cho đến năm 200 sau Công nguyên. Sarvastivada và các nhánh của phái này dã phát triển mạnh chủ yếu ở phái Bắc. Trường phái Sarvastivada được đánh giá cao trong khắp vùng từ Mathura đến Nagara (hara) và từ Taksasila đến Kashmir.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II. Nội dung chính bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
III. Người Xưa Chốn Cũ
Hỏi: Xin cho biết chi tiết về Tỷ Kheo Ni Soṇā ?
Đáp: Nàng Soṇā là con một gia đình quý tộc ở Sāvatthi. Sau khi lập gia đình, nàng sanh được mười người con trai, con gái và được biệt danh là 'người nhiều con' (Bahuputtikā). Khi người chồng xuất gia, nàng phân chia tài sản cho các con và không giữ gì cho mình.
Không bao lâu các con trở mặt khinh rẻ nàng, nàng buồn và xin xuất gia Tỳ kheo Ni trong tuổi già yếu. Trong khi hầu hạ các Trưởng lão Ni, nàng thức đêm tu học. Chẳng bao lâu, nhờ hạnh tinh tấn của nàng, bậc Ðạo Sư biết được trí tuệ của nàng đã chín muồi, nên phóng hào quang và thuyết giảng cho nàng. Tỷ Kheo Ni Soṇā chứng quả A La Hán với đệ nhất tinh tấn (āraddhaviriyānaṃ).
[Tinh Tấn sưu tầm từ Trưởng Lão Ni Kệ - bản dịch của HT Thích Minh Châu]
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III. Người Xưa Chốn Cũ bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
IV. Chữ và nghĩa
Hỏi: ... ?
Ðáp: ...
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV. Chữ và nghĩa bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)
Hỏi: ... ?
Ðáp: ...
VI. Đố Vui (NS Liễu Pháp biên soạn)
...
________________________________________
Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con, đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Trung Bộ Kinh do TT Tuệ Siêu đảm trách phần II Nội Dung Chính và Chư Tôn Đức giảng sư sẽ giảng giải các phần khác trong bài học, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya
mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.
<< Home