Bài Đọc ngày thứ 2 của MC
Phần 1aLễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
Con ..(... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 11 tháng .07 năm.2005 Phật lịch 2549. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay chúng ta sẽ học Bài 3. Xưng Tán Ân Đức Phật (tiếp theo) do ĐĐ Pháp Đăng giảng giải . Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm. chương trình tiếp tục với phần pháp đàm, chúng ta sẽ được nghe Chư Tôn Đức giảng giải đề tài thảo luận ,các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật giáo .
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(MC của phần 1a: ..(.... điền khuyết)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Đây là bài học hôm nay
9. Thế Tôn
53. Thế Tôn (Bhagavā) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:
"Thế Tôn là danh từ tốt nhất
Thế Tôn là danh từ hay nhất
Ðáng quý phục và tôn kính
Thế Tôn do đó là tên của Ngài".
54. Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biệt hoặc được khởi lên một cách tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một giai đoạn là người danh từ như "bò tơ" (vaccha), "trâu chưa thuần" (damua), "bò kéo cày" (balivadha) v.v... Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ "người mang gậy" (dandin), "người che dù" (chanttin), "người mang búi tóc" (sikhin) "kẻ có tay" (karin- con voi), v.v... Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như " người có ba minh" (tevijja) "người có sáu thông" (chalabhinna), v.v... Còn những tên như "sirivaddhaka" (Người tăng vẻ sáng chói) "Dhanavaddhaka" (người tăng tài sản) v.v... là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.
55. Tên gọi này, Thế Tôn, là một danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậu Māya hay vua Suddhodana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như Sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (Sārīputta) nói như sau "Thế Tôn" Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng giác ngộ, những đấng Thế Tôn, cùng với sự đạt được Chánh Biến Tri dưới cội bồ đề; cái tên gọi Thế Tôn "này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt". (Ps. i, 174; Nd1. 143).
56. Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn:
Ðấng Đạo Sư (garu) có phước, lạc (bhagī: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhājì),
Người sở hữu (bhāgī)
Những gì được phân tích (vibhattavā);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhagga),
Ngài là người may mắn (bhāgyavā)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhātitattane) trong nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế Tôn (bhagavā)
Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa, (Nd1., 142)
(MC của phần 1b: ..(.... điền khuyết)
57. Nhưng còn một cách khác: "Ngài là người may mắn (bhagyavā), có được sự từ bỏ (bhaggavā), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibbattavā) "Người đã lui tới (bhattavā) "Ngài đã lui được phân tích (vibbattavā) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế tôn".
58. Ở đây bằng cách sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví dụ "phát triển hình thức, thay đổi hình thức" hoặc bằng cách sử dụng đặc tính "định tính" khởi đầu bằng những ví dụ "có bụng màu lốm đốm" v.v... (xem Pānini, Ganapātha, 6, 3, 109), có thể rằng Ngài cũng có thể được gọi là Thế Tôn (Bhagavā) khi đã được gọi là May mắn (bhāgya) đạt đến toàn thiện về Thí và Giới, v.v... là những điều kiện phát sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
59. Tương tự như vậy, Ngài có thể được gọi là bhagavā vì Ngài đã được gọi là "có sự từ bỏ" (bhaggavā) do những đe dọa (abhanji) cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân si, thất niệm, vô tàm vô quý, phẫn hận, khinh bỉ và thống trị, ganh tị, và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu, ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái, và ngu si, ba bất thiện căn các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt, bốn điên đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu, khát ái, chấp thủ, năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những triền cái và những loại ưa thích, sáu căn và những nhóm khát ái, mười bất thiện nghiệp, 62 tà kiến, 108 lối cư xử thuộc về tham ái, nói tóm lại là năm thứ ma phiền não, ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma.
Từ bỏ (bhagga) tham sân si
Ngài không còn lậu hoặc,
Ác pháp được tận trừ
"Thế Tôn" xứng tên gọi.
60. Sự may mắn hạnh phúc của Ngài (bhāgyavata) được chứng tỏ bằng sắc thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh phúc của Ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt trừ lậu hoặc nơi Ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí, chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
(MC của phần 1c: ..(.... điền khuyết)
61. Ngài cũng được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài liên hệ đến hạnh phúc (bhagohi yuttattā): trong đời, danh từ hạnh phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp, danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có đầy đủ pháp thế gian là các thần thông "hiện thân hình thật nhỏ" (animā: như vi trần), "làm thân nhẹ bổng" (laghima: làm thân nhẹ đi trên hư không) v.v... Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi. Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi vẻ trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát sinh ngay tại chổ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế gian tôn sùng Ngài.
62. Ngài còn được gọi là Bhagavā vì Ngài là Đấng "sở hữu những gì đã được phân tích" (vibhattāvā), như Ngài đã phân tích và thuyết minh các Pháp thành ba loại là thiện ác, và vô ký v.v... Hoặc phân tích các Pháp thiện, v.v... Thành ra những Pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn, duyên khởi v.v... Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành những nghĩa tích lũy, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại. Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân thấy rõ, và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã chỉ ra những ý nghĩa ấy.
63. Ngài có thể được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là đấng "đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu" (vantagamano bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava, âm ga từ chữ gamana, và âm va từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với chữ a dài ra, làm thành Bhagavā.
64. Ngài có thể được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) khi Ngài được gọi là một người "đã lui tới (bhattavā)" do Ngài đã lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như ba trú là thiên trú, phạm trú và thánh trú; ba thứ viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa. [Ba trú là "thiên trú" kasina thiền, "phạm trú": tứ thiền v.v... "thánh trú"; đắc quả. Về ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]
(MC của phần 1d: ..(.... điền khuyết)
65. Khi thiền giả nhớ lại những đức đặc biệt của Phật theo cách sau: "Vì lý do này đức Thế Tôn là bậc A-la-hán... Vì lý do này Ngài là Thế Tôn", thì ngay khi ấy hành giả không bị ám ảnh bởi tham hay sân, hay si tâm vị ấy có được sự ngay thẳng, nhờ cảm hứng từ đấng toàn thiện" (A. iii, 285).
66. Bởi thế, khi hành giả đã dẹp trừ những triền cái bằng cách ngăn ngừa những ám ảnh của tham, v.v... Và tâm hành giả đối diện với đề mục thiền quán một cách ngay thẳng, thì tầm và tứ sinh với một khuynh hướng thiên về những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ. Khi hành giả tiếp tục luyện tầm và tứ trên đối tượng là những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ, thì hỷ khởi lên nơi hành giả. Với tâm có hỷ, với hỷ là nguyên nhân gần, sự rối loạn của thân và tâm được an tĩnh nhờ khinh an, thân lạc và tâm lạc khởi lên. Khi có lạc, tâm hành giả, với những đức tính đặc biệt của Thế Tôn làm đối tượng, trở nên định tĩnh và như vậy cuối cùng những thiền chi khởi lên cùng một loạt. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm những đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên chỉ đạt được định cận hành, không đạt đến định an chỉ. Và chính cận hành định ấy cùng được gọi là "niệm Phật", vì nó khởi lên nhờ tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Thế Tôn.
67. Khi một tỷ kheo chú tâm đến việc tưởng niệm Đấng Giác Ngộ như vậy, vị ấy cung kính tôn trọng đức Đại sư, đạt đến sự viên mãn đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, chinh phục được sự sợ hãi khủng bố. Vị ấy cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng Đạo sư. Thân xác vị ấy khi trú trong tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Phật, trở thành đấng tôn trọng như một điện thờ Phật. Tâm vị ấy hướng về chư Phật. Khi gặp một cơ hội phạm giới, hành giả cảm thấy tàm quý, như thế đang đứng trước mặt đấng Đạo sư. Dù cho hành giả không thâm nhập được gì cao siêu, thì ít nhất cũng tiến đến một cảnh giới an lạc.
Người thực sự có trí.
Thì thường xuyên tưởng niệm
Các đức của Thế tôn
Ðấng an lạc vĩ đại
Trên đây là đoạn nói về tưởng niệm Thế tôn, với giải thích chi tiết.
Chúng con cung thỉnh .ĐĐ Pháp Đăng.từ bi giảng giải ý nghĩa bài học trên . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
-------------------------------------------------------------------------
Phần II: này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần II : Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng/Lời cảm tạ (Tri Chúng lên cảm tạ )
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con anitya thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
ngày mai chúng ta sẽ có lớp Phật Học Cơ Bản do Liễu Pháp giảng giải, với sự điều hợp chương trình của .Dương Tiêu,Tiểu Long Nữ, Dharma10, Khánh Văn, Nguồn Đức Hạnh. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
-------------------------------------------------------------------------
mở kinh tụng và nhạc,
Phần đóng room:
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Phần 1aLễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
Con ..(... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 11 tháng .07 năm.2005 Phật lịch 2549. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay chúng ta sẽ học Bài 3. Xưng Tán Ân Đức Phật (tiếp theo) do ĐĐ Pháp Đăng giảng giải . Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm. chương trình tiếp tục với phần pháp đàm, chúng ta sẽ được nghe Chư Tôn Đức giảng giải đề tài thảo luận ,các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật giáo .
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(MC của phần 1a: ..(.... điền khuyết)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Đây là bài học hôm nay
9. Thế Tôn
53. Thế Tôn (Bhagavā) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:
"Thế Tôn là danh từ tốt nhất
Thế Tôn là danh từ hay nhất
Ðáng quý phục và tôn kính
Thế Tôn do đó là tên của Ngài".
54. Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biệt hoặc được khởi lên một cách tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây, tên chỉ một giai đoạn là người danh từ như "bò tơ" (vaccha), "trâu chưa thuần" (damua), "bò kéo cày" (balivadha) v.v... Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ "người mang gậy" (dandin), "người che dù" (chanttin), "người mang búi tóc" (sikhin) "kẻ có tay" (karin- con voi), v.v... Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như " người có ba minh" (tevijja) "người có sáu thông" (chalabhinna), v.v... Còn những tên như "sirivaddhaka" (Người tăng vẻ sáng chói) "Dhanavaddhaka" (người tăng tài sản) v.v... là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.
55. Tên gọi này, Thế Tôn, là một danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậu Māya hay vua Suddhodana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như Sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (Sārīputta) nói như sau "Thế Tôn" Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng giác ngộ, những đấng Thế Tôn, cùng với sự đạt được Chánh Biến Tri dưới cội bồ đề; cái tên gọi Thế Tôn "này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt". (Ps. i, 174; Nd1. 143).
56. Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn:
Ðấng Đạo Sư (garu) có phước, lạc (bhagī: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhājì),
Người sở hữu (bhāgī)
Những gì được phân tích (vibhattavā);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhagga),
Ngài là người may mắn (bhāgyavā)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhātitattane) trong nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế Tôn (bhagavā)
Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa, (Nd1., 142)
(MC của phần 1b: ..(.... điền khuyết)
57. Nhưng còn một cách khác: "Ngài là người may mắn (bhagyavā), có được sự từ bỏ (bhaggavā), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibbattavā) "Người đã lui tới (bhattavā) "Ngài đã lui được phân tích (vibbattavā) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế tôn".
58. Ở đây bằng cách sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví dụ "phát triển hình thức, thay đổi hình thức" hoặc bằng cách sử dụng đặc tính "định tính" khởi đầu bằng những ví dụ "có bụng màu lốm đốm" v.v... (xem Pānini, Ganapātha, 6, 3, 109), có thể rằng Ngài cũng có thể được gọi là Thế Tôn (Bhagavā) khi đã được gọi là May mắn (bhāgya) đạt đến toàn thiện về Thí và Giới, v.v... là những điều kiện phát sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
59. Tương tự như vậy, Ngài có thể được gọi là bhagavā vì Ngài đã được gọi là "có sự từ bỏ" (bhaggavā) do những đe dọa (abhanji) cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân si, thất niệm, vô tàm vô quý, phẫn hận, khinh bỉ và thống trị, ganh tị, và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu, ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái, và ngu si, ba bất thiện căn các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt, bốn điên đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu, khát ái, chấp thủ, năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những triền cái và những loại ưa thích, sáu căn và những nhóm khát ái, mười bất thiện nghiệp, 62 tà kiến, 108 lối cư xử thuộc về tham ái, nói tóm lại là năm thứ ma phiền não, ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma.
Từ bỏ (bhagga) tham sân si
Ngài không còn lậu hoặc,
Ác pháp được tận trừ
"Thế Tôn" xứng tên gọi.
60. Sự may mắn hạnh phúc của Ngài (bhāgyavata) được chứng tỏ bằng sắc thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh phúc của Ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt trừ lậu hoặc nơi Ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí, chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
(MC của phần 1c: ..(.... điền khuyết)
61. Ngài cũng được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài liên hệ đến hạnh phúc (bhagohi yuttattā): trong đời, danh từ hạnh phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp, danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có đầy đủ pháp thế gian là các thần thông "hiện thân hình thật nhỏ" (animā: như vi trần), "làm thân nhẹ bổng" (laghima: làm thân nhẹ đi trên hư không) v.v... Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi. Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi vẻ trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát sinh ngay tại chổ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế gian tôn sùng Ngài.
62. Ngài còn được gọi là Bhagavā vì Ngài là Đấng "sở hữu những gì đã được phân tích" (vibhattāvā), như Ngài đã phân tích và thuyết minh các Pháp thành ba loại là thiện ác, và vô ký v.v... Hoặc phân tích các Pháp thiện, v.v... Thành ra những Pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn, duyên khởi v.v... Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành những nghĩa tích lũy, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại. Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân thấy rõ, và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã chỉ ra những ý nghĩa ấy.
63. Ngài có thể được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là đấng "đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu" (vantagamano bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava, âm ga từ chữ gamana, và âm va từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với chữ a dài ra, làm thành Bhagavā.
64. Ngài có thể được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) khi Ngài được gọi là một người "đã lui tới (bhattavā)" do Ngài đã lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như ba trú là thiên trú, phạm trú và thánh trú; ba thứ viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa. [Ba trú là "thiên trú" kasina thiền, "phạm trú": tứ thiền v.v... "thánh trú"; đắc quả. Về ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]
(MC của phần 1d: ..(.... điền khuyết)
65. Khi thiền giả nhớ lại những đức đặc biệt của Phật theo cách sau: "Vì lý do này đức Thế Tôn là bậc A-la-hán... Vì lý do này Ngài là Thế Tôn", thì ngay khi ấy hành giả không bị ám ảnh bởi tham hay sân, hay si tâm vị ấy có được sự ngay thẳng, nhờ cảm hứng từ đấng toàn thiện" (A. iii, 285).
66. Bởi thế, khi hành giả đã dẹp trừ những triền cái bằng cách ngăn ngừa những ám ảnh của tham, v.v... Và tâm hành giả đối diện với đề mục thiền quán một cách ngay thẳng, thì tầm và tứ sinh với một khuynh hướng thiên về những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ. Khi hành giả tiếp tục luyện tầm và tứ trên đối tượng là những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ, thì hỷ khởi lên nơi hành giả. Với tâm có hỷ, với hỷ là nguyên nhân gần, sự rối loạn của thân và tâm được an tĩnh nhờ khinh an, thân lạc và tâm lạc khởi lên. Khi có lạc, tâm hành giả, với những đức tính đặc biệt của Thế Tôn làm đối tượng, trở nên định tĩnh và như vậy cuối cùng những thiền chi khởi lên cùng một loạt. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của Đấng Giác Ngộ, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm những đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên chỉ đạt được định cận hành, không đạt đến định an chỉ. Và chính cận hành định ấy cùng được gọi là "niệm Phật", vì nó khởi lên nhờ tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Thế Tôn.
67. Khi một tỷ kheo chú tâm đến việc tưởng niệm Đấng Giác Ngộ như vậy, vị ấy cung kính tôn trọng đức Đại sư, đạt đến sự viên mãn đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, chinh phục được sự sợ hãi khủng bố. Vị ấy cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng Đạo sư. Thân xác vị ấy khi trú trong tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Phật, trở thành đấng tôn trọng như một điện thờ Phật. Tâm vị ấy hướng về chư Phật. Khi gặp một cơ hội phạm giới, hành giả cảm thấy tàm quý, như thế đang đứng trước mặt đấng Đạo sư. Dù cho hành giả không thâm nhập được gì cao siêu, thì ít nhất cũng tiến đến một cảnh giới an lạc.
Người thực sự có trí.
Thì thường xuyên tưởng niệm
Các đức của Thế tôn
Ðấng an lạc vĩ đại
Trên đây là đoạn nói về tưởng niệm Thế tôn, với giải thích chi tiết.
Chúng con cung thỉnh .ĐĐ Pháp Đăng.từ bi giảng giải ý nghĩa bài học trên . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
-------------------------------------------------------------------------
Phần II: này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần II : Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng/Lời cảm tạ (Tri Chúng lên cảm tạ )
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con anitya thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
ngày mai chúng ta sẽ có lớp Phật Học Cơ Bản do Liễu Pháp giảng giải, với sự điều hợp chương trình của .Dương Tiêu,Tiểu Long Nữ, Dharma10, Khánh Văn, Nguồn Đức Hạnh. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
-------------------------------------------------------------------------
mở kinh tụng và nhạc,
Phần đóng room:
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật