Bài Đọc ngày thứ 7 của MC
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(1.MC: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 29 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 6 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Tăng già trong các truyền thống Phật giáo . Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(1.MC : ....)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần VI. Tăng già trong các truyền thống Phật giáo
Chủ biên: Hạt Cát
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
____________________________________________________
2. MC……….
Trích đoạn trong bài viết "Cây cổ thụ Phật Giáo"
- R.P. Hayes - Tâm Hòa dịch
Chúng ta có thể hình dung Đạo Phật như một cây cổ thụ to lớn với cành lá xum xuê. Có một thân cây lớn, với những nhánh chính, rồi đâm ra các cành nhỏ, và cuối cùng là những lá cây trên những cành nhỏ đó. Bên dưới mặt đất là một hệ thống rễ cây. Cũng như là phần trên mặt đất, hệ thống rễ nầy lại phân chia thành nhiều rễ con.
Bây giờ, ta hãy hình dung đến một thân cây to lớn vươn lên khỏi mặt đất và nâng đỡ, nuôi dưỡng các nhánh cây và lá cây. Thân cây nầy biểu tượng cho hành động tìm nơi nương tựa -- quy y -- của Phật tử. Đây là một hành động chung cho mọi Phật tử, và là một phương diện quan trọng nhất của mọi công tác nghiên cứu và hành trì Đạo Phật. Bất cứ luận thuyết, tông phái và pháp hành nào của Phật giáo đều xem như là phải bắt nguồn từ hành động quan yếu đó, mà mỗi Phật từ đều phải trì tụng thường xuyên, đó là việc quy y. Trong tiếng Pali, hành động đó gọi là "sarana-gamana" (quy y). "Gamana" nghĩa là đi đến, tìm về. "Sarana" nghĩa là nơi nương tựa, giúp đỡ, dưỡng nuôi, hướng dẫn. "Quy y" về một nơi nào có nghĩa là đến đó để xin giúp đỡ, hướng dẫn và dưỡng nuôi. Thông thường, đó là điều ta làm khi ta gặp phải một khủng hoảng nào đó trong đời sống, khi ta gặp phải một thực tế khó khăn mà tự chúng ta không thể đương đầu được. Do đó, ta tìm đến một nơi nào đó để xin giúp đỡ.
Điều làm cho một người theo đạo thành một Phật tử không phải chỉ đơn giản là đi tìm nơi nương tựa. Thông thường, đa số chúng ta đi tìm nơi nương tựa ở một cái gì khác, chẳng hạn nương tựa vào bạn bè, rượu chè, nghề nghiệp, ma túy, giải trí, gia đình, chuyên gia, thể thao, nhà phân tâm, tình dục, du lịch, v.v. Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựa ở Đức Phật, Phật Pháp, và Tăng Đoàn -- gọi là Quy Y Tam Bảo.
Ba nhánh rễ chính nầy là để dưỡng nuôi thân cây, và từ một hành động quy y Tam Bảo, tạo ra điều kiện thành lập Phật Giáo như là một tôn giáo có tổ chức. Có nhiều phương thức khác nhau để quy y. Tối hậu, ta có thể nói rằng có nhiều cách quy y khác nhau vì có vô số cá nhân khác nhau, bởi trong lịch sử Đạo Phật, việc quy y tối hậu là một quyết định của từng cá nhân, và mỗi người phải tự mình tìm cách hành trì trong đời sống của riêng từng người. Ta có thể xem mỗi Phật tử là một chiếc lá gắn vào cây cổ thụ Phật giáo. Lá sống nhờ cành, cành gắn vào nhánh phụ, nhánh phụ bắt nguồn từ nhánh lớn vốn mọc ra từ thân cây chính. Từ đó, ta hãy xem xét đến các nhánh cây chính.
3. MC đọc tiếp....
A. Nam Tông
Những nhánh cây chính có thể được xem như là dựa trên căn bản các kinh điển chứa đựng lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử. Một nhánh chính có tên gọi là nhánh Thanh Văn (Savaka). Những vị tu sĩ trong nhánh nầy hành trì theo các giáo pháp mà mọi người đều tin rằng đó là các lời dạy công khai của Đức Phật đến các tu sĩ và cư sĩ đệ tử. Ngày xưa, có rất nhiều nhánh con đâm ra từ nhánh Thanh Văn nầy, nhưng ngày nay chỉ còn lại một nhánh. Nhánh đó được gọi là Theravada (Trưởng Lão Thuyết) có nghĩa là lời thuyết giảng của các vị trưởng lão. Trưởng lão, hay thượng tọa, là tu sĩ đã thọ giới ít nhất là 10 năm và có tuệ giác minh. Tông phái Theravada dựa theo các pháp hành lưu truyền qua nhiều đời của các vị trưởng lão nầy. Giáo pháp của Đức Phật được viết lại trong một tập hợp kinh điển bằng tiếng Pali. Dù rằng các vị tu sĩ Theravada có nghiên cứu các loại kinh sách khác, nền tảng cơ bản của sự giảng dạy và hành trì là dựa vào kinh điển Pali. Tông phái Theravada (thường được gọi là Nam Tông, hay Phật Giáo Nguyên Thủy) ngày nay hiện diện tại Tích Lan, Miến Điện, Lào, Thái Lan, và Việt Nam.
4. MC.đọc tiếp.......
B.Bắc Tông
Nhánh chính thứ hai lại chia chẻ ra rất nhiều nhánh con. Tất cả các nhánh con nầy đều có một đặc điểm chung là họ chấp nhận giá trị của các loại kinh điển khác mà nhánh Thanh Văn không thừa nhận vì cho rằng đó không phải là lời giảng của Đức Phật lịch sử. Nhánh nầy được gọi là nhánh Mahayana (Đại Thừa, Bắc Tông). Số lượng kinh điển Mahayana rất lớn và không ai có thể học hết trong một đời, và vì thế, các Phật tử Mahayana thường chỉ chuyên khảo vào một vài bộ kinh, hoặc chỉ một bộ kinh. Chẳng hạn như Thiền tông (Zen) thường được hiểu rằng chỉ dựa vào sự truyền tụng bộ kinh Lăng Già (tựa đề nguyên thủy "Lăng Già A Bạt Đa La" có nghĩa là truyền dạy chân pháp vào đảo Lăng Già - Tích Lan, một quốc gia có cả 2 nhánh Theravada và Mahayana vào thời đó). Các tông phái Tịnh độ thì dựa vào kinh điển mô tả các quốc độ thanh tịnh cực lạc để ta tái sinh vào đó, tiếp tục hành trì Phật Pháp dễ dàng hơn là trong thế giới khó khăn nầy. Còn nhiều nhánh nhỏ khác, chẳng hạn như nhánh Pháp Hoa, dựa theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa -- một kinh điển nhằm thống nhất các tông phái -- trong đó có nhóm Nhật Liên (Nichiren) và Học Hội Sáng Giá (Soka Gakkai) hiện đang hoạt động tích cực tại Nhật Bản, Hoa Kỳ, và các nơi khác. Thông thường, các nhánh nhỏ nầy lại đan kết với nhau, tạo ảnh hưởng lên nhau, rất khó phân biệt.
Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) đã có thời phát triển sâu rộng tại Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và In-đô-nê-si-a (Nam Dương), nhưng ngày nay đã có nhiều thay đổi. In-đô-nê-si-a giờ đây là một quốc gia Hồi Giáo. Phật Giáo đã tàn lụn tại lục địa Trung Hoa. Đa số dân chúng Triều Tiên theo đạo Ky-Tô, chỉ còn một phần ba là theo đạo Phật. Phật Giáo đang trên đà suy tàn ở Nhật Bản và đang bị thay thế bởi hằng trăm nhóm đạo giáo mới (có khi chỉ có vẻ là Phật Giáo bề ngoài). Phật Giáo ở Việt Nam cũng bị suy yếu vì chiến tranh trong quá khứ và hiện nay là các áp lực chính trị, kinh tế, mặc dù Việt Nam là nơi đã có những nỗ lực tốt để kết hợp hai nhánh Mahayana và Theravada. Có thể nói là đang có những nguy cơ khiến Phật Giáo Đại Thừa có thể sẽ suy tàn ở Á Châu trong 25 năm tới. Một điều buồn là nhánh cây nầy, một thời rất khỏe mạnh và tươi tốt, nay đang bị ung thối và có nguy cơ sẽ gẫy rụng vì sức nặng của nó.
5. MC.đọc tiếp.............
C. Mật Tông.
Nhánh chính thứ ba là nhánh Kim Cương (Vajra). Thật ra, để chính xác, có thể nói nhánh nầy là mọc từ nhánh Đại Thừa, nhưng vì có những đặc thù riêng nên có thể xem như một nhánh chính. Kinh điển của nhánh nầy là dựa theo các mật chú, nên còn được gọi là Phật giáo Mật tông (Tantric Buddhism). Đây là những loại kinh điển viết bằng một văn từ đặc biệt, không rõ ràng cho những ai không được truyền thừa, gọi là mật nghĩa. Ta không thể nghiên cứu hoặc hành trì nếu không có đạo sư hướng dẫn, và những vị thầy có những lễ truyền thừa đặc biệt cho môn đệ có sức linh nào đó để hành trì. Mật tông là tông phái chính ở Tây Tạng và Mông Cổ (từ Tây Tạng truyền sang). Cũng có những hình thái Mật tông khác ở Trung Hoa, và từ đó truyền sang Việt Nam, Triều Tiên, và Nhật Bản. Ngay cả các tông phái Phật Giáo khác cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của Mật tông, trong phần lý luận cũng như trong cách hành trì. Thí dụ như tại Việt Nam ngày nay, thường thấy một sự hòa hợp rất tốt, rất đặc biệt của Nam Tông, nhiều nhánh Bắc Tông (Tịnh độ và Thiền) và Mật Tông. Phật Giáo Triều Tiên giờ đây cũng là một tổng hợp của Thiền, Tịnh và một vài dấu vết của Mật.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
6. MC……….
Vài điểm dị đồng trong tăng lữ thuộc các truyền thống Phật giáo
Tỳ khưu Giác Đẳng
Bài viết nằm trong khuôn khổ hội thảo của chủ đề Truyền Thống Tăng Già
Trên phương diện kinh điển thì các nhà học giả xem Phật giáo có hai giòng chủ lưu chính là Nam Tông và Bắc Tông. Cũng gọi là Nguyên Thuỷ và Đại thừa. Hai nhánh nầy tiêu biểu cho Phật giáo căn bản và phát triển. Nhưng trên thực tế thì mật tông Tây Tạng trên nhiều phương diện chứng tỏ là một phận có khác với Phật giáo Đại Thừa tại Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản. Mật tông vốn là một pháp môn được hành trình trong tất cả quốc gia theo Bắc Truyền thế nhưng Mật Tông ở đây phải được hiểu là Phật giáo Tây Tạng tại chính đất nước nầy và những vùng ảnh hưởng như Nga, Mông Cổ và một số quốc gia chung quanh Hi Mã Lạp Sơn.
I. Những Tương Đồng
1. Rất đáng ngạc nhiên là giới luật của hàng xuất gia, ít nhất là trên kinh điển của các tông phái, lại tương đồng nhiều hơn bất cứ bộ phận nào khác. Mặc dù trên phương diện hành trì thì phần lớn chỉ có Phật giáo Nam Tông là còn giữ đầy đủ nhưng trên lý thuyết thì các tông phái Phật giáo đều có tạng luật tương đối giống nhau.
2. Cho dù ở tông phái nào thì tinh thần tự do cá nhân trong sự tu tập tương đối giống nhau. Không có tông phái nào của Đạo Phật tin vào bạo động là phù hợp với Phật Pháp. Mặc dù một số kinh điển Phật Giáo Đại Thừa ghi rằng bồ tát có thể vì bảo vệ Pháp Đại Thừa mà sát hại sinh vật nhưng trên thực tế rất ít trường hợp trong lịch sử các tông phái sử dụng bạo lực để tồn tại. (...)
3. Tăng lữ ở tất cả tông phái đều mang tôn chỉ hướng cầu giải thoát và tu tập trong nếp sống thanh hạnh. Tông phái nào cũng xem sự cúng dường của tín thí là cơ sở chính cho kinh tế (tất nhiên có vài ngoại lệ không đáng kể).
4. Hầu hết các truyền thống đều có một ranh giới rõ ràng giữa nếp sống tu sĩ và thế tục. Con đường nội tâm phải nằm ngoài những tranh chấp lợi danh của thế gian.
5. Trên nguyên tắc thì tất cả các tông phái đều xem tăng thể tiêu biểu cho sự tồn tại của Đạo Phật.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
7.MC đọc .....
II. Những dị biệt
1. Về hình thức thì pháp phục của chư Tăng Nam Tông gần với Luật tạng nhất. Tiếp theo là Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Xa nhất là Phật giáo Bắc Tông.
2. Về sự truyền thừa thì trong Phật giáo Nam Tông muốn trao truyền giới pháp tỳ khưu hay tỳ khưu ni phải có đủ túc số Tăng hội như đã ghi trong Luật Tạng; điều nầy tạo nên trở ngại trong sự phục hồi giáo đoàn tỳ khưu ni vì không còn ni chúng. Phật Giáo Bắc Tông và Mật Tông thì chấp nhận sự trao truyền của một vị cao Tăng có thể chấp nhận được mặc dù thường khi cũng có những giới đàn rất qui mô.
3. Phẩm trật lớn nhỏ theo Phật giáo Nam Tông hoàn toàn dựa trên hạ lạp; vị nào thọ đại giới trước là vị lớn. Phật giáo Bắc Tông có trường hợp người tu sau nhưng vai vế lớn vẫn lớn hơn như sư thúc đối với các sư điệt chẳng hạn. Phật giáo Mật Tông có trường hợp những hậu thân của các Lạt Ma hay Tulku những vị nầy mặc dầu chỉ là những bé trai nhưng nhận được sự kính trọng của những vị lớn hơn mình.
4. Phật Giáo Bắc Tông thì xem sự khai tông lập phái là một điểm son trong lịch sử tồn tại. Phật giáo Nam Tông thì xem đó là sự chia rẽ Tăng - một trọng tội. Phật Giáo Mật Tông thì chỉ chấp nhận như là một hoàn cảnh mang tính khác quan.
5. Phật giáo Nam Tông lấy ngôn ngữ Maghaghi (ngôn ngữ của Ma Kiệt Đà) là điển ngữ gọi là Pali và điều nầy đặc biệt quan trọng trong việc tác pháp yết ma. Phật giáo Bắc Tông và Mật Tông có cùng xuất xứ giáo hệ Bắc Phạn (Sanscrit) nhưng hiện thì một dùng Hoa Ngữ (....), một dùng Tạng ngữ và dùng ngôn ngữ điạ phương để tác pháp yết ma.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
8.MC đọc .....
III. Những Hình Thái Tồn của các Tông phái.
1. Phật giáo Mật Tông không ăn chay. Ít hơn phân nữa Phật giáo Bắc Tông ăn chay nhưng đặt rất nặng điều nầy. Phật giáo Nam Tông có một số tại Tích Lan ăn chay, còn lại thì chủ trương khất thực thọ dụng những gì do tín thí cúng dường.
2. Phật giáo Mật Tông có nền giáo dục dựa trên những tu viện lớn (như Sera chẳng hạn) giống như những đại học Phật giáo. Phật giáo Nam Tông chú trọng các bộ kinh. Phật Giáo Bắc Tông chú trọng sự hành trì các pháp môn.
3. Phật Giáo Nam Tông xem sự thọ trì Tam Tạng kinh điển mang tính toàn diện trong lúc Phật giáo Bắc Tông và Mật Tông thì chú trọng vào pháp môn và sự truyền thừa.
4. Phật giáo Mật Tông quan niệm rằng con đường tu tập phải đi qua cả ba giai đoạn tiểu thừa, đại thừa và tối thượng thừa. Phật Giáo Bắc Tông xem tiểu thừa là con đường phải tránh thậm chính trong Bồ Tát Giới xem sự tiếp xúc với thinh văn thừa là một trọng tội mặc dù nói rằng tiểu thừa cũng do Phật thuyết. Phật Giáo Nam Tông không có đề gì đến các tông phái vì kinh điển Pàli không đề cập bất cứ quan niệm tông phái nào.
5. Trong lịch sử thì Phật giáo Nam Tông thường bị suy vong là do thiếu người học hiểu Tam Tạng. Phật Giáo Bắc Tông suy vong do sự phân hoá tông phái. Phật giáo Mật Tông bị suy vong do ngoại xâm.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
9. MC……….
Thơ
Nào Phải
Ta bỏ đi, mà chưa từng bỏ cuộc
Về Tây Thiên đâu chỉ một lối mòn
Quên phố xá, ta lên ngàn hái thuốc
Gióng chuông chiều trên đỉnh đá chon von
Hỏi mượn nhau một chút tình rêu cỏ
Về làm thơ tiêu sái những đêm khuya
Và đâu đấy những buồn vui nho nhỏ
Đã hóa thân từng chiếc lá chia lìa
Mai ta đi, với chốn về mù mịt
Nẻo tà dương, đời mạt pháp lâu rồi
Nhớ người xưa, ta về ngồi diện bích
Trăng trên đầu...theo tuế nguyệt đầy vơi
Thơ Toại Khanh
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
10. MC……….
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
___________________________________________________________
11. MC……….
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(1.MC: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 29 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 6 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Tăng già trong các truyền thống Phật giáo . Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(1.MC : ....)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần VI. Tăng già trong các truyền thống Phật giáo
Chủ biên: Hạt Cát
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
____________________________________________________
2. MC……….
Trích đoạn trong bài viết "Cây cổ thụ Phật Giáo"
- R.P. Hayes - Tâm Hòa dịch
Chúng ta có thể hình dung Đạo Phật như một cây cổ thụ to lớn với cành lá xum xuê. Có một thân cây lớn, với những nhánh chính, rồi đâm ra các cành nhỏ, và cuối cùng là những lá cây trên những cành nhỏ đó. Bên dưới mặt đất là một hệ thống rễ cây. Cũng như là phần trên mặt đất, hệ thống rễ nầy lại phân chia thành nhiều rễ con.
Bây giờ, ta hãy hình dung đến một thân cây to lớn vươn lên khỏi mặt đất và nâng đỡ, nuôi dưỡng các nhánh cây và lá cây. Thân cây nầy biểu tượng cho hành động tìm nơi nương tựa -- quy y -- của Phật tử. Đây là một hành động chung cho mọi Phật tử, và là một phương diện quan trọng nhất của mọi công tác nghiên cứu và hành trì Đạo Phật. Bất cứ luận thuyết, tông phái và pháp hành nào của Phật giáo đều xem như là phải bắt nguồn từ hành động quan yếu đó, mà mỗi Phật từ đều phải trì tụng thường xuyên, đó là việc quy y. Trong tiếng Pali, hành động đó gọi là "sarana-gamana" (quy y). "Gamana" nghĩa là đi đến, tìm về. "Sarana" nghĩa là nơi nương tựa, giúp đỡ, dưỡng nuôi, hướng dẫn. "Quy y" về một nơi nào có nghĩa là đến đó để xin giúp đỡ, hướng dẫn và dưỡng nuôi. Thông thường, đó là điều ta làm khi ta gặp phải một khủng hoảng nào đó trong đời sống, khi ta gặp phải một thực tế khó khăn mà tự chúng ta không thể đương đầu được. Do đó, ta tìm đến một nơi nào đó để xin giúp đỡ.
Điều làm cho một người theo đạo thành một Phật tử không phải chỉ đơn giản là đi tìm nơi nương tựa. Thông thường, đa số chúng ta đi tìm nơi nương tựa ở một cái gì khác, chẳng hạn nương tựa vào bạn bè, rượu chè, nghề nghiệp, ma túy, giải trí, gia đình, chuyên gia, thể thao, nhà phân tâm, tình dục, du lịch, v.v. Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựa ở Đức Phật, Phật Pháp, và Tăng Đoàn -- gọi là Quy Y Tam Bảo.
Ba nhánh rễ chính nầy là để dưỡng nuôi thân cây, và từ một hành động quy y Tam Bảo, tạo ra điều kiện thành lập Phật Giáo như là một tôn giáo có tổ chức. Có nhiều phương thức khác nhau để quy y. Tối hậu, ta có thể nói rằng có nhiều cách quy y khác nhau vì có vô số cá nhân khác nhau, bởi trong lịch sử Đạo Phật, việc quy y tối hậu là một quyết định của từng cá nhân, và mỗi người phải tự mình tìm cách hành trì trong đời sống của riêng từng người. Ta có thể xem mỗi Phật tử là một chiếc lá gắn vào cây cổ thụ Phật giáo. Lá sống nhờ cành, cành gắn vào nhánh phụ, nhánh phụ bắt nguồn từ nhánh lớn vốn mọc ra từ thân cây chính. Từ đó, ta hãy xem xét đến các nhánh cây chính.
3. MC đọc tiếp....
A. Nam Tông
Những nhánh cây chính có thể được xem như là dựa trên căn bản các kinh điển chứa đựng lời dạy của Đức Phật và các vị đại đệ tử. Một nhánh chính có tên gọi là nhánh Thanh Văn (Savaka). Những vị tu sĩ trong nhánh nầy hành trì theo các giáo pháp mà mọi người đều tin rằng đó là các lời dạy công khai của Đức Phật đến các tu sĩ và cư sĩ đệ tử. Ngày xưa, có rất nhiều nhánh con đâm ra từ nhánh Thanh Văn nầy, nhưng ngày nay chỉ còn lại một nhánh. Nhánh đó được gọi là Theravada (Trưởng Lão Thuyết) có nghĩa là lời thuyết giảng của các vị trưởng lão. Trưởng lão, hay thượng tọa, là tu sĩ đã thọ giới ít nhất là 10 năm và có tuệ giác minh. Tông phái Theravada dựa theo các pháp hành lưu truyền qua nhiều đời của các vị trưởng lão nầy. Giáo pháp của Đức Phật được viết lại trong một tập hợp kinh điển bằng tiếng Pali. Dù rằng các vị tu sĩ Theravada có nghiên cứu các loại kinh sách khác, nền tảng cơ bản của sự giảng dạy và hành trì là dựa vào kinh điển Pali. Tông phái Theravada (thường được gọi là Nam Tông, hay Phật Giáo Nguyên Thủy) ngày nay hiện diện tại Tích Lan, Miến Điện, Lào, Thái Lan, và Việt Nam.
4. MC.đọc tiếp.......
B.Bắc Tông
Nhánh chính thứ hai lại chia chẻ ra rất nhiều nhánh con. Tất cả các nhánh con nầy đều có một đặc điểm chung là họ chấp nhận giá trị của các loại kinh điển khác mà nhánh Thanh Văn không thừa nhận vì cho rằng đó không phải là lời giảng của Đức Phật lịch sử. Nhánh nầy được gọi là nhánh Mahayana (Đại Thừa, Bắc Tông). Số lượng kinh điển Mahayana rất lớn và không ai có thể học hết trong một đời, và vì thế, các Phật tử Mahayana thường chỉ chuyên khảo vào một vài bộ kinh, hoặc chỉ một bộ kinh. Chẳng hạn như Thiền tông (Zen) thường được hiểu rằng chỉ dựa vào sự truyền tụng bộ kinh Lăng Già (tựa đề nguyên thủy "Lăng Già A Bạt Đa La" có nghĩa là truyền dạy chân pháp vào đảo Lăng Già - Tích Lan, một quốc gia có cả 2 nhánh Theravada và Mahayana vào thời đó). Các tông phái Tịnh độ thì dựa vào kinh điển mô tả các quốc độ thanh tịnh cực lạc để ta tái sinh vào đó, tiếp tục hành trì Phật Pháp dễ dàng hơn là trong thế giới khó khăn nầy. Còn nhiều nhánh nhỏ khác, chẳng hạn như nhánh Pháp Hoa, dựa theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa -- một kinh điển nhằm thống nhất các tông phái -- trong đó có nhóm Nhật Liên (Nichiren) và Học Hội Sáng Giá (Soka Gakkai) hiện đang hoạt động tích cực tại Nhật Bản, Hoa Kỳ, và các nơi khác. Thông thường, các nhánh nhỏ nầy lại đan kết với nhau, tạo ảnh hưởng lên nhau, rất khó phân biệt.
Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana) đã có thời phát triển sâu rộng tại Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và In-đô-nê-si-a (Nam Dương), nhưng ngày nay đã có nhiều thay đổi. In-đô-nê-si-a giờ đây là một quốc gia Hồi Giáo. Phật Giáo đã tàn lụn tại lục địa Trung Hoa. Đa số dân chúng Triều Tiên theo đạo Ky-Tô, chỉ còn một phần ba là theo đạo Phật. Phật Giáo đang trên đà suy tàn ở Nhật Bản và đang bị thay thế bởi hằng trăm nhóm đạo giáo mới (có khi chỉ có vẻ là Phật Giáo bề ngoài). Phật Giáo ở Việt Nam cũng bị suy yếu vì chiến tranh trong quá khứ và hiện nay là các áp lực chính trị, kinh tế, mặc dù Việt Nam là nơi đã có những nỗ lực tốt để kết hợp hai nhánh Mahayana và Theravada. Có thể nói là đang có những nguy cơ khiến Phật Giáo Đại Thừa có thể sẽ suy tàn ở Á Châu trong 25 năm tới. Một điều buồn là nhánh cây nầy, một thời rất khỏe mạnh và tươi tốt, nay đang bị ung thối và có nguy cơ sẽ gẫy rụng vì sức nặng của nó.
5. MC.đọc tiếp.............
C. Mật Tông.
Nhánh chính thứ ba là nhánh Kim Cương (Vajra). Thật ra, để chính xác, có thể nói nhánh nầy là mọc từ nhánh Đại Thừa, nhưng vì có những đặc thù riêng nên có thể xem như một nhánh chính. Kinh điển của nhánh nầy là dựa theo các mật chú, nên còn được gọi là Phật giáo Mật tông (Tantric Buddhism). Đây là những loại kinh điển viết bằng một văn từ đặc biệt, không rõ ràng cho những ai không được truyền thừa, gọi là mật nghĩa. Ta không thể nghiên cứu hoặc hành trì nếu không có đạo sư hướng dẫn, và những vị thầy có những lễ truyền thừa đặc biệt cho môn đệ có sức linh nào đó để hành trì. Mật tông là tông phái chính ở Tây Tạng và Mông Cổ (từ Tây Tạng truyền sang). Cũng có những hình thái Mật tông khác ở Trung Hoa, và từ đó truyền sang Việt Nam, Triều Tiên, và Nhật Bản. Ngay cả các tông phái Phật Giáo khác cũng chịu ít nhiều ảnh hưởng của Mật tông, trong phần lý luận cũng như trong cách hành trì. Thí dụ như tại Việt Nam ngày nay, thường thấy một sự hòa hợp rất tốt, rất đặc biệt của Nam Tông, nhiều nhánh Bắc Tông (Tịnh độ và Thiền) và Mật Tông. Phật Giáo Triều Tiên giờ đây cũng là một tổng hợp của Thiền, Tịnh và một vài dấu vết của Mật.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
6. MC……….
Vài điểm dị đồng trong tăng lữ thuộc các truyền thống Phật giáo
Tỳ khưu Giác Đẳng
Bài viết nằm trong khuôn khổ hội thảo của chủ đề Truyền Thống Tăng Già
Trên phương diện kinh điển thì các nhà học giả xem Phật giáo có hai giòng chủ lưu chính là Nam Tông và Bắc Tông. Cũng gọi là Nguyên Thuỷ và Đại thừa. Hai nhánh nầy tiêu biểu cho Phật giáo căn bản và phát triển. Nhưng trên thực tế thì mật tông Tây Tạng trên nhiều phương diện chứng tỏ là một phận có khác với Phật giáo Đại Thừa tại Trung Hoa, Đại Hàn và Nhật Bản. Mật tông vốn là một pháp môn được hành trình trong tất cả quốc gia theo Bắc Truyền thế nhưng Mật Tông ở đây phải được hiểu là Phật giáo Tây Tạng tại chính đất nước nầy và những vùng ảnh hưởng như Nga, Mông Cổ và một số quốc gia chung quanh Hi Mã Lạp Sơn.
I. Những Tương Đồng
1. Rất đáng ngạc nhiên là giới luật của hàng xuất gia, ít nhất là trên kinh điển của các tông phái, lại tương đồng nhiều hơn bất cứ bộ phận nào khác. Mặc dù trên phương diện hành trì thì phần lớn chỉ có Phật giáo Nam Tông là còn giữ đầy đủ nhưng trên lý thuyết thì các tông phái Phật giáo đều có tạng luật tương đối giống nhau.
2. Cho dù ở tông phái nào thì tinh thần tự do cá nhân trong sự tu tập tương đối giống nhau. Không có tông phái nào của Đạo Phật tin vào bạo động là phù hợp với Phật Pháp. Mặc dù một số kinh điển Phật Giáo Đại Thừa ghi rằng bồ tát có thể vì bảo vệ Pháp Đại Thừa mà sát hại sinh vật nhưng trên thực tế rất ít trường hợp trong lịch sử các tông phái sử dụng bạo lực để tồn tại. (...)
3. Tăng lữ ở tất cả tông phái đều mang tôn chỉ hướng cầu giải thoát và tu tập trong nếp sống thanh hạnh. Tông phái nào cũng xem sự cúng dường của tín thí là cơ sở chính cho kinh tế (tất nhiên có vài ngoại lệ không đáng kể).
4. Hầu hết các truyền thống đều có một ranh giới rõ ràng giữa nếp sống tu sĩ và thế tục. Con đường nội tâm phải nằm ngoài những tranh chấp lợi danh của thế gian.
5. Trên nguyên tắc thì tất cả các tông phái đều xem tăng thể tiêu biểu cho sự tồn tại của Đạo Phật.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
7.MC đọc .....
II. Những dị biệt
1. Về hình thức thì pháp phục của chư Tăng Nam Tông gần với Luật tạng nhất. Tiếp theo là Phật giáo Mật Tông Tây Tạng. Xa nhất là Phật giáo Bắc Tông.
2. Về sự truyền thừa thì trong Phật giáo Nam Tông muốn trao truyền giới pháp tỳ khưu hay tỳ khưu ni phải có đủ túc số Tăng hội như đã ghi trong Luật Tạng; điều nầy tạo nên trở ngại trong sự phục hồi giáo đoàn tỳ khưu ni vì không còn ni chúng. Phật Giáo Bắc Tông và Mật Tông thì chấp nhận sự trao truyền của một vị cao Tăng có thể chấp nhận được mặc dù thường khi cũng có những giới đàn rất qui mô.
3. Phẩm trật lớn nhỏ theo Phật giáo Nam Tông hoàn toàn dựa trên hạ lạp; vị nào thọ đại giới trước là vị lớn. Phật giáo Bắc Tông có trường hợp người tu sau nhưng vai vế lớn vẫn lớn hơn như sư thúc đối với các sư điệt chẳng hạn. Phật giáo Mật Tông có trường hợp những hậu thân của các Lạt Ma hay Tulku những vị nầy mặc dầu chỉ là những bé trai nhưng nhận được sự kính trọng của những vị lớn hơn mình.
4. Phật Giáo Bắc Tông thì xem sự khai tông lập phái là một điểm son trong lịch sử tồn tại. Phật giáo Nam Tông thì xem đó là sự chia rẽ Tăng - một trọng tội. Phật Giáo Mật Tông thì chỉ chấp nhận như là một hoàn cảnh mang tính khác quan.
5. Phật giáo Nam Tông lấy ngôn ngữ Maghaghi (ngôn ngữ của Ma Kiệt Đà) là điển ngữ gọi là Pali và điều nầy đặc biệt quan trọng trong việc tác pháp yết ma. Phật giáo Bắc Tông và Mật Tông có cùng xuất xứ giáo hệ Bắc Phạn (Sanscrit) nhưng hiện thì một dùng Hoa Ngữ (....), một dùng Tạng ngữ và dùng ngôn ngữ điạ phương để tác pháp yết ma.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
8.MC đọc .....
III. Những Hình Thái Tồn của các Tông phái.
1. Phật giáo Mật Tông không ăn chay. Ít hơn phân nữa Phật giáo Bắc Tông ăn chay nhưng đặt rất nặng điều nầy. Phật giáo Nam Tông có một số tại Tích Lan ăn chay, còn lại thì chủ trương khất thực thọ dụng những gì do tín thí cúng dường.
2. Phật giáo Mật Tông có nền giáo dục dựa trên những tu viện lớn (như Sera chẳng hạn) giống như những đại học Phật giáo. Phật giáo Nam Tông chú trọng các bộ kinh. Phật Giáo Bắc Tông chú trọng sự hành trì các pháp môn.
3. Phật Giáo Nam Tông xem sự thọ trì Tam Tạng kinh điển mang tính toàn diện trong lúc Phật giáo Bắc Tông và Mật Tông thì chú trọng vào pháp môn và sự truyền thừa.
4. Phật giáo Mật Tông quan niệm rằng con đường tu tập phải đi qua cả ba giai đoạn tiểu thừa, đại thừa và tối thượng thừa. Phật Giáo Bắc Tông xem tiểu thừa là con đường phải tránh thậm chính trong Bồ Tát Giới xem sự tiếp xúc với thinh văn thừa là một trọng tội mặc dù nói rằng tiểu thừa cũng do Phật thuyết. Phật Giáo Nam Tông không có đề gì đến các tông phái vì kinh điển Pàli không đề cập bất cứ quan niệm tông phái nào.
5. Trong lịch sử thì Phật giáo Nam Tông thường bị suy vong là do thiếu người học hiểu Tam Tạng. Phật Giáo Bắc Tông suy vong do sự phân hoá tông phái. Phật giáo Mật Tông bị suy vong do ngoại xâm.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
9. MC……….
Thơ
Nào Phải
Ta bỏ đi, mà chưa từng bỏ cuộc
Về Tây Thiên đâu chỉ một lối mòn
Quên phố xá, ta lên ngàn hái thuốc
Gióng chuông chiều trên đỉnh đá chon von
Hỏi mượn nhau một chút tình rêu cỏ
Về làm thơ tiêu sái những đêm khuya
Và đâu đấy những buồn vui nho nhỏ
Đã hóa thân từng chiếc lá chia lìa
Mai ta đi, với chốn về mù mịt
Nẻo tà dương, đời mạt pháp lâu rồi
Nhớ người xưa, ta về ngồi diện bích
Trăng trên đầu...theo tuế nguyệt đầy vơi
Thơ Toại Khanh
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
10. MC……….
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
___________________________________________________________
11. MC……….
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già với chủ đề Tu sĩ và thế giới hôm hay với sự điều hợp chương trình của chư Tôn Đức , các MC và ops của room DP. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca MâuNi Phật
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật