<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://www.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d12421254\x26blogName\x3dB%C3%A0i+%C4%90%E1%BB%8Dc+c%E1%BB%A7a+MC\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://baidocmc.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://baidocmc.blogspot.com/\x26vt\x3d9116706110527376988', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe" }); } }); </script>

Chủ Nhật, tháng 10 30, 2005

Bài Đọc ngày chủ nhật của MC

Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(1.MC: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 30 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 8:00 đến 10:30 tối, giờ Houston 7:00 đến 9:30sáng, giờ NY từ 8:00 đến 10:30 sáng , giờ Cali 5 :00 đến 7:30 sáng, giờ Paris 2:00đến 4:30 chiều, giờ Sydney 12:00 tối đến 2:30 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay ngày kết thúc tuần lễ Ðề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Tăng già trong các truyền thống Phật giáo . Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:

(Đại Đức Minh Hanh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.


Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo

Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************

(1.MC : ....)

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng


Chương trình hôm nay với chủ đề :

Phần VI. Tăng già trong các truyền thống Phật giáo



Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
____________________________________________________

2MC .........

Đại lễ Tăng y Kathina

Tỳ khưu Giác Đẳng
(Viết làm tài liệu thảo luận của Tuần Lễ Truyền Thống Tăng Già)



Đại lễ Tăng Y Kathina là đại lễ hằng năm duy nhất được chính Đức Phật và chư Phật quá khứ ban hành. Trong cung cách cúng dường một bộ y đặc biệt với một số luật định khiến đại lễ nầy trở thành một thắng duyên cho cả hai giới xuất gia và tại gia. Để tìm hiểu về đại lễ nầy cần đi vào một số chi tiết quan trọng chứ không thể nhận định qua một vài khái niệm.



I. Vài điều cần biết tiên khởi

a. Nhập hạ (Vassà)

Thời Đức Phật tại thế, Ngài và chư Tăng có nếp sống du phương nghĩa là đi từ nơi nầy sang nơi khác để hoằng hoá. Thời tiết tại Ấn Độ từ Rằm Tháng Sáu đến Rằm Tháng Chín Âm lịch là mùa mưa (Monsoon). Trong thời gian nầy côn trùng sanh nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc, sự đi lại khó khăn. Đức Phật và chư Tăng an cư một nơi có máy che trong suốt thời gian nầy. Đây cũng là dịp để chư tăng trau giồi pháp học, pháp hành. Thông thường thì chư Tăng chính thức nhập hạ từ Rằm Tháng Sáu đến Rằm tháng Chín gọi là Tiền An Cư (Purimikavassa). Nếu có việc chẳng đặng đừng thì nhập hạ sau đó một tháng tức từ Rằm Tháng Bảy đến Rằm tháng Mười gọi là Hậu An Cư (Pacchimikàvassà). (Phật giáo Bắc Truyền an cư từ Rằm Tháng Tư đến Rằm Tháng Bảy và sau nầy tại Việt Nam dùng chữ kiết hạ có ý nghĩa tương đối khác với luật nghi)

b. Pháp phục của chư tăng

Pháp phục của một tỳ khưu gồm tam y ca sa. Tất cả đều may theo hình chữ nhật không giống như quần áo người cư sĩ (nên có câu người xuất gia đầu tròn áo vuông). Ba y gồm có y nội (Antaravasaka - an đà hội hay hạ trước y) , y vai trái (uttarasangha - Uất đà la tăng hay thượng trước y), y kép (sanghati - tăng già lê hay trùng phục y). Vì là hình chữ nhật nên dễ tự may cắt. Màu sắc thường là màu vàng, màu nghệ, màu nâu. Tăng y tiêu biểu cho hạnh xả ly. Trong kinh cũng gọi là lá cờ của bậc Ứng Cúng. Một lần Đức Thế Tôn đi ngang triền núi của xứ Magadha, ngài gợi ý cho tôn giả Ananda may y ca sa theo hình thức những thửa ruộng biểu trưng cho phước điền vô thượng của thế gian


c. Nghi luật Tăng sự (Sanghakamma)

Chư tăng truyền thống là một đoàn thể dân chủ đại nghị. Khi có bất cứ điều gì cần giải quyết hay thực hiện với sự thông qua tăng chúng thì cần có những thể thức rõ ràng được gọi là Tăng Sự (sanghakamma).
Trong những Tăng Sự như vậy thì điều quan trọng nhất là tác bạch tăng sự (kammavaca). Đây là một lời trình đúng theo luật nghi do một vị thông hiểu giới pháp thực hiện. Thường thì chư tăng thông qua bằng sự im lặng. Tác bạch tăng sự đó phải đúng việc, đúng thể thức, đúng thời, đúng tăng hội. Các dịch giả Trung Hoa không tìm được chữ dịch thoả đáng nên dùng Phạn âm là Yết ma (Kamma). Một số chư Tăng Nam Tông Việt Nam dùng chữ tuyên ngôn nhưng từ nầy không chuẩn vì mang nghĩa khác.


Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)

3. MC……….

II. Đại lễ Tăng y Kathina

a. Ý nghĩa của chữ Kathina

Kathina có nghĩa là bền chặt, không dễ bị vỡ vụn. Gọi như vậy vì đại lễ nầy kết cấu nhiều qui định quan trọng dẫn đến thắng duyên. Một người làm phước sự gì quá đơn giản thì tâm của người cúng dường cũng như người thọ thí thường khó làm cho sự bố thí đạt đến chỗ viên mãn nếu thiếu những yếu tố thù thắng của tâm thí, thời thí, vật thí, người thọ thí, và cung cách thí. Đại lễ Kathina bao hàm tất cả những điều đó nên gọi là bền vững, viên mãn.

b. Dâng y

Có một số điều nhất định không thể khác đi được trong việc dâng y Kathina:
- Mỗi chùa một năm chỉ tổ chức một lần bất cứ ngày nào từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Sau lễ nếu có người cúng một số tiền thật lớn để tổ chức thì cũng không làm được
- Chỉ có thể cúng dường nếu có chư tỳ khưu nhập hạ tại chùa.
- Chỉ cúng dường đến đại chúng Tăng già rồi chư Tăng giao y theo nghi luật chứ không cúng trực tiếp cá nhân tỳ khưu nào. Nên không tự tay trực tiếp dâng y mà đặt y trước mặt Đại Tăng. Chư tăng chỉ nhận bằng cách im lặng chứ không bằng tay.
- Chỉ một trong ba y được dùng để cử hành Tăng sự.
- Cả hai giới xuất gia và tại gia đều có thể tổ chức lễ Tăng y Kathina
- Có thể dâng y may sẳn hay vải để may y.

c. Thọ y

Chư Tăng phải thọ y theo nghi luật được Đức Phật ban hành:
- Phải có đủ túc số từ 5 vị tỳ khưu trở lên mới có thể cử hành tăng sự thọ y Kathina
- Tiêu chuẩn giao y ưu tiên theo nhu cầu (thí dụ như y quá rách), rồi hạ lạp, rồi sự am hiểu thể thức thọ y.
- Nếu là y kathina là vải thì phải cắt, may, nhuộm, và hoàn tất tăng sự trong ngày.
- Tăng sự được thành tựu sau ba lần tác pháp yết ma với sự im lặng đồng thuận của tăng chúng
- Vị tỳ khưu thọ y phải biết xả y cũ, làm dấu và chú nguyện y mới, và hoàn tất bằng lời trình
- Những vị tỳ khưu khác cùng nhập hạ nói lời tuỳ hỉ

Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
4. MC……….

III. Đại lễ Tăng y và truyền thống Tăng già

a. Tăng thể là đại thể

Tăng luôn được hiểu là đại thể của tất cả những vị tỳ khưu truyền thừa giáo pháp. Ngày nào người Phật tử cúng dường nghĩ đến đại thể thì Phật Pháp còn hưng thịnh và sự cúng dường vô phân biệt nói lên tinh thần chung vượt ngoài những quan niệm cá nhân. Chiếc y Kathina cho dù trong hình thức đơn giản nhất cũng nói lên ba điều quan trọng là người cúng dường không cá nhân tuyển thí, chư tăng giao y theo cách lợi hoà đồng quân và lễ phẩm được trang trọng vì chuyên chở giá trị truyền thống.

b. Quả phước của lễ Tăng y Kathina

Người cúng dường y Kathina gieo tạo phước duyên thù thắng vì làm được Tăng thí vô phân biệt, cúng dường đúng thời, cúng dường hợp đạo. Người làm được điều nầy đời sau có duyên lành xuất gia, tác thành tăng tướng nhanh chóng, và đầy đủ phước vật. Đại lễ tăng y mang lại an lạc cho Tăng già, do vậy, là một phước hạnh thù thắng.

c. Lễ Tăng Y và ảnh hưởng xã hội

Người đầu tiên tổ chức Tăng y trong giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là đại thí chủ Visakha. Tổ chức tại chùa Kỳ viên, thành Savatthi. Ngày nay tại các quốc gia Phật giáo Nam Truyền thì đây là lễ hội lớn làm nổi bật ba ý nghĩa: hộ trì Tăng Chúng để giáo pháp trường tồn, người cư sĩ tìm thấy niềm vui đạo vị của một mùa lễ hội và ngày đại lễ nầy cũng nhắc nhở cả hai giới xuất gia và tại gia phải trân trọng tấm lòng của đàn tín.

Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)

5. MC……….

TIN TỨC

No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học

Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri

Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.

Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.

Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.

Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.

Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.

Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.

Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.

Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.

Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.

(tinhtan luoc dich)
________________________________________________________________

No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)

Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.

Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005

Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.

Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.

Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.

Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.

Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.

Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.

“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.




____________________________________________________


Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.


Kính Bạch chư Tôn Đức,

kính thưa quý đạo hữu,

ngày mai chúng ta sẽ có lớp Giảng Giải Kinh Tụng do ĐĐ Pháp Đăng giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.


Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca MâuNi Phật
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật