<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://draft.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d12421254\x26blogName\x3dB%C3%A0i+%C4%90%E1%BB%8Dc+c%E1%BB%A7a+MC\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://baidocmc.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://baidocmc.blogspot.com/\x26vt\x3d9116706110527376988', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe" }); } }); </script>

Thứ Hai, tháng 7 24, 2006

Bài Đọc ngày thứ 2 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
MC1: Con Nhu Phuc (Anitya điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 24 tháng 07 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là lớp Lịch Sử Phật Giáo chúng ta sẽ học bài NGUỒN GỐC ĐẠO PHẬT - PHONG TỤC TẾ LỄ (tt) do TT Tuệ Siêu hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:

"2500 YEARS OF BUDDHISM" - 2500 LỊCH SỬ PHẬT GIÁO

---o0o---


Chương II: Origin Of Buddhism - Nguồn gốc Đạo Phật

Phong Tục Tế Lễ (Cult Of Sacrifice) (tt)

Tác giả P. V. Bapat
Việt dịch Hữu Song Nguyễn Đức Tư

____________

II. Nội dung chính

(MC1: Nhu Phuc / ĐK: Anitya)

II - 15: Trong số sáu nhà tư tưởng này thì Nigantha Nataputta (Ni-kiền-tử giáo chủ) vốn chính là Mahavira, người sáng lập, và theo Kỳ Na giáo thì đây là nhà tiên tri cuối cùng của chu kỳ thế giới ngày nay, dường như chỉ lớn tuổi hơn Đức Phật đôi chút. Ông này thuyết giảng các giáo lý về đạo đức mà không biết rằng đã có một tu sĩ khổ hạnh trưởng lão xuất chúng từng có những tư tưởng tương tự như thế. Đó là Parshva, ngày nay người ta được biết ông là lớp tiền bối của Mahavira, đã sống 250 năm trước đó. Giới luật đạo đức của Parshva có bốn điều, còn của Mahavira thì có năm điều. Trong các điều này thì ba điều đầu tiên là không sát sinh, không lấy vật dụng trước khi người ta cho và không nói dối, thì cả hai trường phái Parshva và Mahavira đều giống nhau. Điều thứ tư trong giáo lý của Parshva là không được có các sở hữu trần tục kể cả vợ con, được Mahavira tách ra làm hai để làm thành một giới luật năm điều. Việc không lấy vợ hoặc sống độc thân trong giới luật thứ tư của Mahavira, và việc không có các sở hữu trần tục ngoại trừ y phục trong điều thứ năm của giới luật Mahavira có vẻ như hợp lại tạo thành điều luật thứ tư của Parshva. Do đó, sự khác biệt chính về mặt thực hành hay ngoại hiện của các qui luật đạo đức giữa Mahavira và Parshva là trong khi Parshva cùng các môn đệ của ông theo phái Lõa hình (Naked) hay Acelakas thì Mahavira và các môn đệ lại mặc y phục màu trắng, nhưng chẳng mang thêm một trang sức nào khác. Nói một cách khác, đức tin Kỳ Na theo lời giảng của Mahavira thì cũng giống như tín ngưỡng của Parshva nhưng có phần hiện đại hơn. Do đó, hai trường phái này tự nhiên sẽ hòa nhập làm một như đã xảy ra 250 năm sau khi Parshva qua đời, các môn đệ của Parshva và Mahavira cùng họp lại ở thành Xá-vệ (Sravasti) và đi đến chỗ thống nhất. Về sau, Kỳ Na giáo đã giải thích sự hòa nhập của hai trường phái này một cách khác đi, bằng cách thêm vào 22 nhà tiên tri đã có trước Parshva khiến cho Parshva trở thành nhà tiên tri thứ 23 và Mahavira là nhà tiên tri thứ 24 của họ. Tuy nhiên, cũng hoàn toàn không sai khi nói rằng, Parshva và Mahavira đã độc lập xây dựng nên một triết lý và hệ thống tôn giáo có những giáo lý giống nhau.

(MC2: Anitya / ĐK: Hat Cat)

II - 16: Tuy nhiên, theo kinh sách Kỳ Na giáo thì đạo này không phải là một hệ luân lý thuần túy mà là một triết lý dựa trên thuyết khả thể, có tên là Anekanta hay Syadvada. Chủ thuyết này nhìn mọi vật dưới hai khía cạnh: vĩnh cữu và không vĩnh cửu. Linh hồn chịu sự luân hồi tùy theo những việc làm thiện và ác. Kỳ Na giáo cho là có jiva (sinh mạng) trong mọi vật, cho nên tôn giáo này buộc phải xử sự sao cho không gây tổn thương cho bất kỳ một jiva nào. Linh hồn sẽ không thanh tịnh và chìm đắm trong luân hồi (samsara) nếu nó chịu ảnh hưởng của trần tục. Để giữ cho linh hồn thanh tịnh, không tập nhiễm ô trược và đảm bảo được giải thoát thì phải biết điều ngự. Muốn làm được điều này cần phải vận dụng chánh trí và đạo đức. Kinh thư Phật giáo, chẳng hạn như Anguttara (Tăng Chi Bộ kinh) và bộ kinh thứ 74 của Tikanipata, diễu cợt giáo lý Kỳ Na, đặc biệt là ý tưởng vượt qua tội lỗi, hạn chế hoạt động và sự chú trọng vào kiểu ăn mặc của tôn giáo này.

II - 17: Nhân vật quan trọng thứ hai cùng thời với Đức Phật là Makkhali Gosala hệ phái Acelakas hay phái Lõa Hình (Naked) và thường chống một cây gậy tre (Maskarin) như phần đầu tên ông đã cho thấy. Theo lời kể lại thì ông ta đã một thời là môn đệ của Mahavira, nhưng sau đó đã tách ra khỏi ông này. Về sau, Gosala có lẽ đã lập ra một trường phái độc lập có tên là Ajvika. Những người viết sách sau đó có nói đến hai vị tiền bối nữa là Nanda Vaccha và Kisa Samkicca, khiến cho trường phái này có ba người chủ trương phái này ngày nay đã tàn lụi nhưng trước đây dường như đã được nhiều người biết đến, thậm chí còn có cả sự đỡ đầu của nhà vua. Giáo lý do Gosala đề xướng có tên là samsara-visuddhi hay giáo lý đạt đến thanh tịnh chỉ bằng cách trải qua tất cả các kiếp. Gosala không tìn là có một nguyên nhân đặc biệt nào gây ra sự đau khổ hoặc sự giải thoát cho con người. Ông không tin ở sự nỗ lực của con người và cho rằng tất cả mọi sinh vật đều chẳng làm gì được trước số phận và tất cả mọi người, dù khôn hay dại, đều phải đi vào luân hồi và sự khổ của họ chỉ kết thúc khi đã đi qua hết cái vòng này. Không có nỗ lực nào của con người có thể rút ngắn hay kéo dài chu trình đó. Giống như một cuộn chỉ, samsara (luân hồi) có một thời hạn nhất định mà mọi sinh vật đều phải đi qua.

(MC3: Hat Cat / ĐK: Tinh Tan)

II - 18: Bốn vị giáo chủ còn lại, được kể là cùng thời với Đức Phật, đã không lưu lại dấu ấn cho hậu thế như Mahavira, hoặc ở một mức độ thấp hơn, như Gosala. Trong bốn vị này, Purana Kassapa chủ trương thuyết Akriya (không có nghiệp báo) hay thuyết vô nghiệp (non-action). Ông ta cho rằng con người không gánh chịu tội lỗi qua các hành động mà ai cũng thấy là xấu xa, ví dụ như sát sinh, trộm cắp, lấy vợ người khác hay nói dối. Thậm chí một người đã giết hết mọi sinh vật trên trái đất, chất thành một đống đầu lâu, thì người đó cũng không gánh chịu tội lỗi gì cả. Tương tự, người đó cũng chẳng tạo được công đức qua những việc làm tốt, dù cho có ở phía Nam hay phía Bắc sông Hằng. Cũng như vậy từ sự điều ngự, sự cúng dường, sự chân thật cũng chẳng đem lại lợi ích gì cho anh ta. Chủ thuyết của Purana Kassapa giống với chủ thuyết Carvakas (duy vật cổ sơ) ở nhiều khía cạnh.

Ajita Keshakambalin là một người đồng thời khác của Đức Phật. Ông này không tin vào lợi ích của sự việc cúng dường, và sự tế lễ, vào kết quả của việc làm thiện ác, sự hiện hữu của thiên đàng hay của những con người có quyền lực cao siêu hoặc phép thần thông. Ông cho rằng thân xác được cấu tạo bởi bốn yếu tố (tứ đại) và sau khi chết thì thân xác lại trở về với các yếu tố này. Ông cũng cho rằng nói chuyện kiếp sau chẳng có ích gì, rằng cả người khôn và người dại đều chết cả và chẳng có cuộc đời nào khác sau khi chết. Quan điểm của ông cũng tương tự như quan điểm duy vật cổ sơ (Carvakas), và chủ thuyết của ông có thể gọi là Ucchedavada (Đoạn Kiến tông).

Pakudha Kaccayana có lẽ là Kakuda Katyayana như đã được nói đến trong Prasnopanisad. Ông này và các quan điểm của ông cũng đã được nhắc đến trong Suyagada, cuốn sách thứ hai của bộ kinh Kỳ Na Shvetambara. Chủ thuyết của ông có thể gọi là Asasvatavada (Vô thường luận). Theo ông thì có bảy yếu tố không bị biến đổi tạo nên cơ thể, các yếu tố này không liên quan gì đến sự gây ra vui sướng hay buồn khổ. Thân xác cuối cùng sẽ tan ra thành bảy yếu tố vĩnh cửu đó.

Vị cuối cùng trong số các giáo chủ đó là Sanjaya Belatthiputa. Ajatashatru gọi ông này là giáo chủ ngông cuồng nhất và ngu xuẩn nhất trong số các giáo chủ mà ông gặp. Thuyết của ông này có tên là Viksepavada, hay là thuyết làm cho tâm trí hoang mang, lạc hướng. Theo kinh Sa môn quả thì ông này luôn tránh né việc đưa ra những câu trả lời minh bạch cho những vấn đề mà tâm trí con người phải đối diện. Có mười vấn đề không được giải đáp vẫn luôn luôn ám ảnh tâm trí con người và thường xuyên được nhắc đến trong kinh thư Phật giáo mà Sanjaya chẳng bao giờ muốn trả lời. Có thể nhận thấy những câu hỏi đó cũng đã từng được đặt ra cho Đức Phật nhiều lần tránh né trả lời, những thái độ của Ngài đối với các câu hỏi này thì hoàn toàn khác. Ngài nói rằng không nên để mất thì giờ về những vấn đề không đâu ấy, bởi chúng chẳng giúp gì cho sự tiến bộ của con người.

(MC4: Tinh Tan / ĐK: Upekha)

II - 19: Sau khi đã điểm qua các xu hướng triết học khác nhau trước khi Đức Phật ra đời, giờ đây chúng ta có thể thấy rõ vì sao Ngài đã nghĩ đến một tín ngưỡng mới vốn đã tức thời thu hút sự chú ý của mọi người được hàng triệu con người đón nhận.

Các luận sư như Pakudha Kaccayana và Ajita Keshakambalin thì đề ra một chủ thuyết vũ trụ mà theo đó vũ trụ có thể trường cửu hay không trường cửu, được biểu thị lần lượt bởi các công thức sabbam atthi và sabbam natthi hoặc đúng hơn nữa là bằng các lý thuyết có tên là Sasvatavada (Thường luận) và Ucchedavada (Đoạn luận).

Gosala thì nghĩ rằng tính chất mọi vật được định đoạt từ trước và không có nhân hay duyên nào định trước các tính chất đó, điều này được biểu thị qua các công thức sabbam pubbekatahetu (mọi cái đều do tiền định) và sabbam ahetu-apaccaya (tất cả đều là vô nhân, vô duyên).

Một quan điểm khác thì cho rằng sự vui, sự buồn là do hành động của bản thân gây ra hoặc là do một nguyên nhân nào khác gây ra, như được biểu thị qua các công thức sukhadukkham sayamkatam (khổ lạc do mình gây ra) và sukhadukkam parakatam (khổ lạc do người khác gây ra).

Còn một quan niệm khác nữa cho rằng mục đích và giá trị cuộc đời được thể hiện bằng sự hưởng thụ lạc thú trần gian hoặc sự tự hành xác, như được biểu thị bằng các công thức kamesu-kamasukhallikanuyogo (thúc liễm bản thân).

Nếu xem xét lại các dòng tư tưởng triết học thời ấy, ta thấy rõ ràng cả Mahavira và Đức Phật đều phải đối đầu với những nhà tư tưởng cùng những tư tưởng cực đoan của họ thuộc bốn loại trên, và mỗi người phải có một cách lý giải riềng của mình. Mahavira lý giải các vấn đề theo ngôn ngữ của thuyết khả thể (Anekantavada) hoặc Syadvada, còn các câu trả lời của Đức Phật thì đựa trên thuyết Paticca-samuppada (Thập nhị nhân duyên) của Ngài. Trong khi Mahavira bám theo chủ thuyết Attakilamatha hay hành xác, đối nghịch với Purana Kassapa, Ajita và Sanjaya, thì Đức Phật lại thuyết giảng về Majjhimapatipada hay là Trung đạo (Middle Path).

Chúng con cung thỉnh TT Tuệ Siêu từ bi thuyết giảng bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Phật Pháp Phổ Thông do SC Liễu Pháp giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các Ops MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)

Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.