Bài Đọc ngày thứ 6 của MC
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(1.MC: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 28 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 5 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Phần V. Tu sĩ và thế giới hôm hay . Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(1.MC : ....)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần V. Tu sĩ và thế giới hôm hay
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
____________________________________________________
2. MC……….
A. Những đổi thay của thế giới hôm nay và ảnh hưởng đối với đời sống tu sĩ
Sự thiếu hụt các linh mục trong thời hiện đại.
Minh Hạnh dịch
có phải tôn giáo trong sự suy tàn?
Dựa theo Viện Đại Học Catholic University of America, thi` cứ 100 vị tu sĩ chết hay rời bỏ nhà thờ, thi` chỉ vào khoảng 30 hay 40 được thay thế. Trừ khi nhà thờ thay đổi chính sách, những vị linh mục ở thành phố Milwaukee đã tranh luận, chỉ trong vài năm nữa các linh mục Thiên chúa giáo sẽ trở lên rất khan hiếm.
"Những vi tân linh mục thi` bị thiếu hụt trong toàn quốc.....
Tuần trước, những tín đồ Thiên Chúa giáo tại Brooklyn và Queens nhận được lời cảnh cáo thảm khốc rằng sự thiếu hụt các linh mục trong giáo phận đã tới ti`nh trạng khủng khoảng. Sự thiếu hụt thi` rất khốc liệt, đức Giám Mục Thomas V. Daily đã nói trong một một bức thư đăng trong một tờ báo của giáo xứ, rằng ở mỗi xứ đạo phải báo cáo số con chiên và cần chuẩn bị cho sự gộp lại và sự cắt giảm.
.....dựa theo sự nghiên cứu trong năm 1997 bởi cơ quan Center for Applied Research tại Apostolate.......con số cha mẹ cho phép con trai và con gái của họ theo học các ngành liên quan đến giáo đường bị giảm xuống 25% từ năm 1964 tới năm 1974.....
Trong vo`ng 20 năm qua, sự thụ chức của các linh mục trong giáo khu của Brooklyn giảm 92%, theo hồ sơ của nhà thờ ghi nhận. Nhưng ti`nh trạng ở đó thi` gần như không sinh sản trong những giáo xứ ở trong nước. Trong những giáo phận của miền Tây, miền Nam và phía trên Trung Tây, những vị linh mục được chỉ định chăm lo cho những giáo xứ, họ luân phiên nhau giống như trong đoàn xiệc.
Thời đại ngày nay, người thanh niên trẻ cương quyết ước muốn xóa bỏ sự giáo dục và liều mạng cho sự phản đối của gia đi`nh, để trở thành vị linh mục.
"Nếu bạn đi sum họp gia đi`nh" linh mục Burns (Edward J. Burns, vị giám đốc hành chánh của giáo hội Catholic quốc gia trường dậy làm linh mục) nói rằng," một ti`nh nhân trẻ chưa cưới nhau vào trong nhà thờ và nói rằng, Chúng tôi đã sống chung với nhau một năm rưỡi rồi nhưng không ai trong gia đi`nh có lời nói gi`. Họ có thể xi` xầm to nhỏ về chuyện đó, nhưng họ đã không nói những lời gi` phản đối.
"Nhưng nếu người trẻ vào và nói,"Tôi đang nghĩ về việc tôi vào trường đạo và trở thành vị linh mục; bạn có thể chắc chắn rằng một vài người trong gia đi`nh sẽ đẩy anh ta qua một bên và nói "con (cháu) có chắc rằng con (cháu) biết đang làm gi` không".
-The New York Times, November 19, 2000
Nhà thời Catholic đóng cửa trường đạo tại Ireland
Nhà thờ Roman Catholic tại Ireland, là nơi sản xuất những vị linh mục cho toàn thế giới, đã đóng cửa cơ sở thần học khác. Nhà thờ chỉ co`n lại một trường đạo phần lớn là trong quốc gia. Vị giám đốc của đại học St. Patrick tại Thurles, miền Tây Nam Ireland nói rằng những trường đạo của họ có thể chuyển tới trường đạo hải ngoại. Trường đại học Maynơoth gần Dublin. St. Patrick có một thích ứng trong việc đưa các vị linh mục tới Châu Mỹ và Châu Úc. Vào khoảng 180 thi` vẫn hành đạo trong nước Hoa Ky`.
-USA Today, Friday, August 30th, 2002
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
3. MC……….
B. Nếp sống tu viện ngày nay
Cư sĩ Bình Anson
1. Tu viện Bodhinyana
Hội Phật Giáo Tây Úc được thành lập năm 1974 bởi Giáo sư Jayasuriya và một số Phật tử tại Perth. Giáo sư là người phụ trách môn Tâm lý học tại Ðại học Tây Úc và là người sinh ra ở Tích Lan, thấm nhuần đạo Phật. Các hội viên đầu tiên gồm một số người Úc, người Hoa và người Thái lan theo truyền thống Phật giáo Nam Tông (Theravada). Hiện nay, tổng số hội viên chính thức là 300 người, gồm có người Úc gốc Âu Mỹ và các Phật tử gốc Đông Nam Á như Thái lan, Lào, Cam-pu-chia, Hoa, Miến điện, Tích Lan, Mã Lai, Singapore, và Việt Nam.
Lúc ban đầu, Hội mua được một ngôi nhà nhỏ ở vùng North Perth để làm nơi thờ phượng và sinh hoạt giáo lý. Thỉnh thoảng Hội cũng có mời thỉnh các danh tăng đến từ Thái Lan, Miến Ðiện, và Tích Lan để giảng pháp và hướng dẫn các khóa tu thiền.
Ðến năm 1981 thì Hội thỉnh được hai tu sĩ Phật Giáo người Úc - nhưng tu học ở Thái Lan trong nhiều năm, đến hoằng pháp tại Perth. Ðó là Tỳ khưu Jagaro và Purisso, thuộc truyền thống ẩn lâm của ngài thiền sư Ajahn Chah, một vị thiền sư danh tiếng ở Thái Lan. "Ajahn" (A-chàn) là tiếng Thái, có nghĩa là Thầy, bắt nguồn từ tiếng Phạn "Acarya" (A-xà-lê).
Sự có mặt của hai vị Tỳ khưu nầy đã lôi cuốn được rất nhiều người Úc đến nghe giảng pháp và thực tập hành thiền. Năm 1983, Hội mua được một thửa đãt rừng nguyên sinh trong huyện Serpentine, cách thành phố Perth khoảng 70 kílômét về hướng Nam để thành lập một Tu viện. Tu viện nầy rộng khoảng 40 hécta, nằm trên một ngọn đồi cao, có suối chảy ngang, với nhiều loại cây nguyên sinh, chưa khai phá. Vị trụ trì hiện nay, và cũng là vị lãnh đạo tinh thần của Hội Phật Giáo Tây Úc, là ngài Tỳ khưu Brahmavamso, người Anh, nhưng rất thông thạo tiếng Thái và Pali.
Xem hình ảnh Tu viện tại trang web:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/bodhinyana/bodhinyana.htm
Kính mời MC kế tiếp
4. MC đọc tiếp ………
Tu viện có tên là Bodhinyana (Giác Minh), được dành làm nơi tu học cho các vị Tỳ khưu. Trong khuôn viên của tu viện có một chính điện lớn để các vị Tỳ khưu tụ hội tham thiền, học kinh điển và giới luật. Phía sau là một thư viện chứa các bộ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali, Thái, và Anh, và các kinh sách quan trọng khác.
Ở gần chính điện có một trai đường, gồm 2 tầng. Tầng trên dành cho quý Tăng Ni thọ trai và tầng dưới dành cho các sinh hoạt của cư sĩ đến làm công quả. Rãi rác trong rừng là từng tịnh thất nhỏ dành cho các Tỳ khưu, mỗi vị một tịnh thất, với kích thước khoảng 3 x 3 mét, vừa đủ để một giường ngủ và một bàn viết nhỏ. Bên ngoài mỗi tịnh thất là có một đường đi ngắn khoảng 30 mét, có mái che để các Tỳ khưu đi kinh hành.
Ngoài ra, còn có một khu nhà 4 phòng dành cho các giới tử tu học dài hạn, một nhà 3 phòng dành cho nam cư sĩ và một nhà 3 phòng dành cho nữ cư sĩ đến tu học ngắn hạn.
Hiện nay, có nhiều Phật tử tại Tây Úc cũng như từ các nơi khác trên thế giới đến xin ở lại tại tu viện để thọ tám giới, hành thiền, và giúp điều hành tu viện, có thể xem như đó là các cư sĩ hộ tăng, những ưu-bà-di (upasika) và u-bà-tắc (upasaka). Thông thường, đây là những Phật tử thuần thành, có sinh hoạt thường xuyên với Hội Phật giáo Tây Úc và từng tham gia nhiều khóa tu thiền ẩn cư do Hội tổ chức. Sau đó, nếu phát tâm xuất gia thì các vị đó xin trở thành giới tử (anagarika), mặc y phục trắng, cạo tóc, và tuân giữ 8 giới căn bản. Ngoài công phu hành thiền và học tập Phật Pháp căn bản, các vị giới tử nầy cũng được hướng dẫn các nghi thức căn bản và căn bản giới luật.
Sau một năm, vị giới tử xin thọ giới Sa-di (samanera), giữ 10 giới căn bản. Điểm căn bản khác với hàng giới tử là ngoài việc đắp y vàng nâu, các vị Sa-di không được phép cất giữ tiền bạc, không được phép tự lái xe, nhưng vẫn có thể phụ với các giới tử để sửa soạn thức ăn nếu cần thiết. Tuy nhiên, cũng như hàng Tỳ khưu, mỗi vị Sa-di được cấp cho một tịnh thất riêng biệt.
Sau đó một năm, nếu thích hợp, vị Sa-di có thể xin thọ đại giới để trở thành Tỳ khưu (Bhikkhu). Lễ xuất gia Sa-di thường được tổ chức tại Trung tâm Phật giáo Dhammaloka (Pháp Quang) ở thành phố Perth. Tuy nhiên, lễ thọ Đại giới Tỳ khưu thì được tổ chức trong chánh điện của Tu viện Bodhinyana, nơi đã có kết giới Sima, theo đúng nghi thức truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy.
Các vị Tỳ khưu tại tu viện không cất giữ tiền bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến chi thu tài chánh đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây Úc quản lý. Trong bối cảnh hiện đại của nước Úc, các vị có giữ thêm một thẻ Medicare do chính phủ cấp để được khám bệnh miễn phí mỗi khi đau bệnh. Cũng xin ghi nhận thêm là mặc dù ở Úc có quy chế bắt buộc mọi công dân phải đi bầu phiếu mỗi khi có các cuộc tuyển cử Quốc hội Liên bang và Tiểu bang, các vị Tỳ khưu đã xin đặc miễn, để không tham gia vào các hoạt động đó.
Thông thường, vị Tỳ khưu thức giấc khoảng 4 giờ sáng và hành thiền trong tịnh thất của mình. Điểm tâm tại trai đường lúc 6:30 giờ, nhưng cũng có vị không dùng điểm tâm. Sau đó là các công tác bảo quản và điều hành tu viện. Bửa ăn chính vào khoảng 10:30 giờ sáng, thức ăn do các cư sĩ mang đến cúng dường hay cho các giới tử nấu. Các vị đều ăn trong bình bát riêng của mình, cùng ngồi chung tại trai đường, hoặc ăn riêng tại tịnh thất.
Phần thời gian còn lại trong ngày là ẩn cư tịnh tu. Hành thiền tại tịnh thất, tự học thêm Phật Pháp tại thư viện, hoặc có những giờ tham vấn riêng với Sư Cả hay các vị sư cao hạ khác. Vào buổi chiều, khoảng 6 giờ, các vị tụ hội tại chánh điện, tụng đọc khóa lễ buổi chiều, sau đó là uống trà, và bàn luận về các vấn đề liên quan đến sự tu học. Mỗi tháng 2 lần, vào buổi tối, các vị Tỳ khưu tụ hội tại chánh điện để đọc tụng giới bổn của tu sĩ, Patimokkha (Ba-la-đề Mộc-xoa).
Thỉnh thoảng, mỗi vị lại tự nhập thất tịnh tu biệt cư, trong khoảng từ 2 tuần lễ đến 1 tháng, không giao tiếp với một người nào khác.
Đôi khi các vị Tỳ khưu cũng được phép tháp tùng theo Sư Cả hoặc các vị niên trưởng về thành phố Perth vào cuối tuần để thuyết pháp, hoặc tham dự các khóa lễ cầu siêu, cầu an tại nhà của cư sĩ nếu có thỉnh mời, hoặc tham dự hướng dẫn các khóa tu thiền dành cho cư sĩ, để quan sát và học tập kinh nghiệm về cách thức thuyết giảng giáo pháp, các khóa nghi lễ phổ thông, cũng như cách giao tiếp với hàng cư sĩ.
Sau khi tu học ở đây được 5 năm, các vị Tỳ khưu được gửi đến các tu viện khác, thường là đến các tu viện trong cùng truyền thống của Ngài Ajahn Chah ở Thái Lan để tu học thêm. Ngoài ra, các vị đó có thể đến tu học ở Miến Điện, Sri Lanka, Tân Tây Lan, và Anh quốc. Mỗi năm vào mùa an cư kiết hạ, có thêm một số Tỳ khưu ở các nơi khác đến tu viện để nhập hạ tịnh tu. Hiện nay, có tất cả là 20 vị Tỳ khưu đang tu học tại tu viện, gồm nhiều thành phần sắc tộc khác nhau: Úc, Anh, Mỹ, Đức, Na Uy, Thái, và kể cả 2 vị Tỳ-khưu gốc Việt. Với nhu cầu tu học ngày càng phát triển, Ngài Ajahn Brahm đã mở thêm một tu viện chi nhánh ở tiểu bang New South Wales, miền đông nước Úc, có tên là Tu viện Santi, cũng tọa lạc trong khung cảnh núi rừng để các Tỳ khưu tịnh tu.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
5. MC……….
2. Ni viện Dhammasara
Để cung ứng nhu cầu tu học của các nữ Phật tử, vào năm 1999, Hội Phật Giáo Tây Úc mua thêm một thửa đất rừng nguyên sinh, rộng khoảng 250 hécta, trong huyện Gidgeganup, 60 kilômét về hướng Đông Bắc thành phố Perth, để thành lập Ni viện Dhammasara (Tinh Pháp). Viện chủ hiện nay là Ni sư Vayama, người Úc, đã từng tu học 10 năm với cố Ni sư Ayya Khema ở Sri Lanka.
Tu viện Dhammasara được thành lập để tạo một môi trường thuận lợi cho việc tu học ẩn cư cho các vị nữ Phật tử, với những điều kiện tương tự như Tu viện Bodhinyana dành cho các nam Phật tử.
Tu viện gồm có một nhà đa dụng, trong đó có một trai đường rộng lớn, một phòng khách, nhà bếp, và 2 phòng ngủ dành cho giới tử. Trong rừng sâu, có 5 tịnh thất biệt lập dành cho các vị Tu nữ tịnh tu. Kiến trúc tịnh thất cũng tương tự như tịnh thất ở Tu viện Bodhinyana: một phòng 3m x 3 m, và một lối đi kinh hành dài 30 m có mái che.
Có thể xem hình ảnh của tu viện tại:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/dhammasara/dhammasara.htm
Những nữ Phật tử cư sĩ có thiện tâm muốn tu học thì có thể xin đến thử tu học một thời gian từ 3 đến 6 tháng, mặc y phục trắng, giữ 8 giới. Sau đó, nếu thích hợp, có thể xin làm giới tử, quấn y trắng, giữ 8 giới và cạo tóc. Sau 2 năm, vị nữ giới tử có thể xin xuất gia thành Tu nữ, tuân giữ 10 giới, và đắp y màu nâu. Ngoài 10 giới căn bản, còn có một số điều lệ học giới, dựa theo giới bổn của Tỳ khưu ni. Cũng như các vị Tỳ khưu, các vị Tu nữ ăn cơm trong bình bát, không cất giữ tiền bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến chi thu tài chánh để điều hành Ni viện đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây Úc quản lý.
Chương trình sinh hoạt hằng ngày tại Ni viện Dhammasara cũng tương tự như lịch sinh hoạt của các vị Tỳ khưu tại Tu viện Bodhinyana.
Hiện nay, Tu viện có 3 vị Tu nữ: Ni sư Vayama, Sư cô Nirodha người Úc, và Sư cô Seri người Malaysia, và hai vị giới tử. Mỗi tháng, Ni sư Vayama về thành phố Perth để giảng pháp và hướng dẫn hành thiền cho các cư sĩ hội viên. Theo nội qui của Hội Phật Giáo Tây Úc, Ni sư Vayama cùng với Ngài Ajahn Branhmavamso là hai vị Cố vấn Tinh thần (Spiritual Directors) của Hội.
Ngoài tu viện Bodhinyana và ni viện Dhammasara ở Úc, còn có một số tu viện khác của tăng sĩ Tây phương trong truyền thống Ẩn Lâm của ngài Ajahn Chah, như: tu viện Abhayagiri ở Hoa Kỳ; ở Anh quốc có các tu viện Amaravati, Ratanagiri, Cittaviveka, Santidhamma; ở Thụy Sĩ có tu viện Dhammapala; ở Ý có tu viện Santacittarama; và ở Tân Tây Lan có tu viện Bodhinyanarama. Nguyên tắc sinh hoạt tại các tu viện này cũng tương tự như tu viện tại Tây Úc.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
6. MC……….
C. Xuất gia trong điều kiện nào là thích hợp nhất
Cư sĩ Bình Anson
Nhìn chung, mặc dù môi trường và hoàn cảnh hiện nay trong xã hội Tây Phương có phần khác biệt so với thời Đức Phật còn tại thế, nhưng trong 20 năm qua, Tăng đoàn tại Tây Úc đã nỗ lực gầy dựng một truyền thống tu học và gìn giữ giới luật theo đúng tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy. Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng có lẽ có 2 yếu tố quan trọng nhất: Thứ nhất là sự quyết tâm tu học và hành trì giới luật nghiêm túc của vị lãnh đạo Tăng chúng và các thành viên Tăng đoàn; và thứ hai là sự quyết tâm hỗ trợ và thành tâm học tập, nhiệt tình đóng góp Phật sự tích cực của các vị cư sĩ hộ tăng, hộ tự.
Thêm vào đó, chúng tôi nghĩ rằng để Phật giáo được quảng bá và thật sự bám rễ tại môt quốc gia Âu Mỹ, các tu viện, tự viện phải được mở rộng, vượt qua các rào cản về văn hóa, sắc tộc, để đón nhận người dân bản địa. Hoạt động của Hội Phật giáo Tây Úc và hai Tu viện Bodhinyana và Dhammasara có thể xem như là một thí dụ điển hình. Đây không phải là một hội Phật giáo dành riêng cho cộng đồng người Việt, hay người Hoa, người Thái, người Miến, v.v... mà là hội Phật giáo của người Úc tại xứ Úc. Các thành viên có thể đến từ nhiều nguồn gốc văn hóa khác nhau, nhưng tất cả đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, và các hình thức văn hóa phong tục lễ nghi rườm rà không cần thiết cần phải được gạn lọc, để chỉ giữ lại phần gốc tinh túy nhất của đạo Phật. Các vị tu sĩ giảng sư hoặc là người bản địa, hoặc là người có thể thuyết giảng thông thạo bằng tiếng bản xứ (ở đây là tiếng Anh). Các vị này cũng cần phải qua một quá trình tu học nhiều năm tại một quốc gia Phật giáo ở châu Á (Thái Lan, Sri Lanka, Miến Điện) để có thể thấm nhuần và thông hiểu tường tận các sinh hoạt và nghi thức tinh yếu của Phật Giáo. Các sinh hoạt của Hội cũng cần có mục đích cung ứng nhu cầu tâm linh của giới trẻ, giảng giải Phật Pháp bằng những ngôn từ giản dị, hiện đại, thuận lý và mạch lạc, hướng dẫn các khóa thiền thư dãn tâm trí, và khuyến khích hội viên tích cực tham gia các công tác thiện nguyện, cứu trợ xã hội, v.v...
Kính mời MC kế tiếp
7. MC đọc tiếp ………
Đời sống xuất gia là một đời sống thanh cao, lý tưởng. Những người cư sĩ tại gia chúng ta cần phải có nhiều đóng góp - thì giờ, công sức, lẫn tiền bạc - để tạo điều kiện thuận lợi cho những vị nào thành tâm tu học, nam tu sĩ lẫn nữ tu sĩ. Qua những gì chúng tôi quan sát được tại Tây Úc, chúng ta cần khuyến khích các giới trẻ tham gia Phật sự, nghe thuyết pháp, và hành thiền. Nếu đạo hữu nào phát tâm xuất gia thì cũng cần phải kiên nhẫn, phải thử qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên là thường xuyên tham gia các khóa học Phật pháp phổ thông, các khóa thiền căn bản, và cũng nên cố gắng học tụng đọc các bài kinh căn bản. Đời sống riêng tư tại thế cũng cần giản dị hóa, giảm thiểu mọi ràng buộc, mọi nhu cầu không cần thiết. Sau đó, nên thu xếp thì giờ để đến tu học ngắn hạn tại tu viện, để làm quen với lối sống tại đó. Dần dần, nếu cảm thấy thích hợp thì có thể tiến đến giai đoạn lâu dài hơn, để tu học như là giới tử, rồi sa-di, và tỳ khưu hoặc là tu nữ.
Với những ai vì già yếu, hay bệnh tật, không thể sống được tại tu viện, hoặc không thể tiếp cận được một tu viện thích hợp, thì vẫn có thể tu ẩn cư tại nhà, giữ 8 giới. Tuy rằng phương cách nầy có nhiều hạn chế, nhưng theo thiển ý, cũng là một phương cách tốt, một phương cách tâm lý xuất gia, cũng có thể đưa đến nhiều kết quả tốt lành và cao quý cho đời sống tâm linh.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
8. MC……….
Thơ
Nào Phải
Ta bỏ đi, mà chưa từng bỏ cuộc
Về Tây Thiên đâu chỉ một lối mòn
Quên phố xá, ta lên ngàn hái thuốc
Gióng chuông chiều trên đỉnh đá chon von
Hỏi mượn nhau một chút tình rêu cỏ
Về làm thơ tiêu sái những đêm khuya
Và đâu đấy những buồn vui nho nhỏ
Đã hóa thân từng chiếc lá chia lìa
Mai ta đi, với chốn về mù mịt
Nẻo tà dương, đời mạt pháp lâu rồi
Nhớ người xưa, ta về ngồi diện bích
Trăng trên đầu...theo tuế nguyệt đầy vơi
Thơ Toại Khanh
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
9. MC……….
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
___________________________________________________________
10. MC……….
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
(1.MC: ....)
Namo Buddhaya
Con ......(..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn ÐứcTăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện . Hôm nay ngày 28 tháng 10 năm.2005 Phật lịch 2548. Ðây là chương trình Phật Hoc trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng , giờ Cali 5 :30 đến 8:00 sáng, giờ Paris 2:30đến 5:00 chiều, giờ Sydney 10:30 tối đến 1:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay ngày thứ 5 trong tuần lễ Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già , trong buổi học này chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức thảo luận đề tài Phần V. Tu sĩ và thế giới hôm hay . Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay:
(Đại Đức Minh Hanh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
(1.MC : ....)
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Chương trình hôm nay với chủ đề :
Phần V. Tu sĩ và thế giới hôm hay
Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi dẫn nhập chương trình sinh hoạt hôm nay . Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
____________________________________________________
2. MC……….
A. Những đổi thay của thế giới hôm nay và ảnh hưởng đối với đời sống tu sĩ
Sự thiếu hụt các linh mục trong thời hiện đại.
Minh Hạnh dịch
có phải tôn giáo trong sự suy tàn?
Dựa theo Viện Đại Học Catholic University of America, thi` cứ 100 vị tu sĩ chết hay rời bỏ nhà thờ, thi` chỉ vào khoảng 30 hay 40 được thay thế. Trừ khi nhà thờ thay đổi chính sách, những vị linh mục ở thành phố Milwaukee đã tranh luận, chỉ trong vài năm nữa các linh mục Thiên chúa giáo sẽ trở lên rất khan hiếm.
"Những vi tân linh mục thi` bị thiếu hụt trong toàn quốc.....
Tuần trước, những tín đồ Thiên Chúa giáo tại Brooklyn và Queens nhận được lời cảnh cáo thảm khốc rằng sự thiếu hụt các linh mục trong giáo phận đã tới ti`nh trạng khủng khoảng. Sự thiếu hụt thi` rất khốc liệt, đức Giám Mục Thomas V. Daily đã nói trong một một bức thư đăng trong một tờ báo của giáo xứ, rằng ở mỗi xứ đạo phải báo cáo số con chiên và cần chuẩn bị cho sự gộp lại và sự cắt giảm.
.....dựa theo sự nghiên cứu trong năm 1997 bởi cơ quan Center for Applied Research tại Apostolate.......con số cha mẹ cho phép con trai và con gái của họ theo học các ngành liên quan đến giáo đường bị giảm xuống 25% từ năm 1964 tới năm 1974.....
Trong vo`ng 20 năm qua, sự thụ chức của các linh mục trong giáo khu của Brooklyn giảm 92%, theo hồ sơ của nhà thờ ghi nhận. Nhưng ti`nh trạng ở đó thi` gần như không sinh sản trong những giáo xứ ở trong nước. Trong những giáo phận của miền Tây, miền Nam và phía trên Trung Tây, những vị linh mục được chỉ định chăm lo cho những giáo xứ, họ luân phiên nhau giống như trong đoàn xiệc.
Thời đại ngày nay, người thanh niên trẻ cương quyết ước muốn xóa bỏ sự giáo dục và liều mạng cho sự phản đối của gia đi`nh, để trở thành vị linh mục.
"Nếu bạn đi sum họp gia đi`nh" linh mục Burns (Edward J. Burns, vị giám đốc hành chánh của giáo hội Catholic quốc gia trường dậy làm linh mục) nói rằng," một ti`nh nhân trẻ chưa cưới nhau vào trong nhà thờ và nói rằng, Chúng tôi đã sống chung với nhau một năm rưỡi rồi nhưng không ai trong gia đi`nh có lời nói gi`. Họ có thể xi` xầm to nhỏ về chuyện đó, nhưng họ đã không nói những lời gi` phản đối.
"Nhưng nếu người trẻ vào và nói,"Tôi đang nghĩ về việc tôi vào trường đạo và trở thành vị linh mục; bạn có thể chắc chắn rằng một vài người trong gia đi`nh sẽ đẩy anh ta qua một bên và nói "con (cháu) có chắc rằng con (cháu) biết đang làm gi` không".
-The New York Times, November 19, 2000
Nhà thời Catholic đóng cửa trường đạo tại Ireland
Nhà thờ Roman Catholic tại Ireland, là nơi sản xuất những vị linh mục cho toàn thế giới, đã đóng cửa cơ sở thần học khác. Nhà thờ chỉ co`n lại một trường đạo phần lớn là trong quốc gia. Vị giám đốc của đại học St. Patrick tại Thurles, miền Tây Nam Ireland nói rằng những trường đạo của họ có thể chuyển tới trường đạo hải ngoại. Trường đại học Maynơoth gần Dublin. St. Patrick có một thích ứng trong việc đưa các vị linh mục tới Châu Mỹ và Châu Úc. Vào khoảng 180 thi` vẫn hành đạo trong nước Hoa Ky`.
-USA Today, Friday, August 30th, 2002
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
3. MC……….
B. Nếp sống tu viện ngày nay
Cư sĩ Bình Anson
1. Tu viện Bodhinyana
Hội Phật Giáo Tây Úc được thành lập năm 1974 bởi Giáo sư Jayasuriya và một số Phật tử tại Perth. Giáo sư là người phụ trách môn Tâm lý học tại Ðại học Tây Úc và là người sinh ra ở Tích Lan, thấm nhuần đạo Phật. Các hội viên đầu tiên gồm một số người Úc, người Hoa và người Thái lan theo truyền thống Phật giáo Nam Tông (Theravada). Hiện nay, tổng số hội viên chính thức là 300 người, gồm có người Úc gốc Âu Mỹ và các Phật tử gốc Đông Nam Á như Thái lan, Lào, Cam-pu-chia, Hoa, Miến điện, Tích Lan, Mã Lai, Singapore, và Việt Nam.
Lúc ban đầu, Hội mua được một ngôi nhà nhỏ ở vùng North Perth để làm nơi thờ phượng và sinh hoạt giáo lý. Thỉnh thoảng Hội cũng có mời thỉnh các danh tăng đến từ Thái Lan, Miến Ðiện, và Tích Lan để giảng pháp và hướng dẫn các khóa tu thiền.
Ðến năm 1981 thì Hội thỉnh được hai tu sĩ Phật Giáo người Úc - nhưng tu học ở Thái Lan trong nhiều năm, đến hoằng pháp tại Perth. Ðó là Tỳ khưu Jagaro và Purisso, thuộc truyền thống ẩn lâm của ngài thiền sư Ajahn Chah, một vị thiền sư danh tiếng ở Thái Lan. "Ajahn" (A-chàn) là tiếng Thái, có nghĩa là Thầy, bắt nguồn từ tiếng Phạn "Acarya" (A-xà-lê).
Sự có mặt của hai vị Tỳ khưu nầy đã lôi cuốn được rất nhiều người Úc đến nghe giảng pháp và thực tập hành thiền. Năm 1983, Hội mua được một thửa đãt rừng nguyên sinh trong huyện Serpentine, cách thành phố Perth khoảng 70 kílômét về hướng Nam để thành lập một Tu viện. Tu viện nầy rộng khoảng 40 hécta, nằm trên một ngọn đồi cao, có suối chảy ngang, với nhiều loại cây nguyên sinh, chưa khai phá. Vị trụ trì hiện nay, và cũng là vị lãnh đạo tinh thần của Hội Phật Giáo Tây Úc, là ngài Tỳ khưu Brahmavamso, người Anh, nhưng rất thông thạo tiếng Thái và Pali.
Xem hình ảnh Tu viện tại trang web:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/bodhinyana/bodhinyana.htm
Kính mời MC kế tiếp
4. MC đọc tiếp ………
Tu viện có tên là Bodhinyana (Giác Minh), được dành làm nơi tu học cho các vị Tỳ khưu. Trong khuôn viên của tu viện có một chính điện lớn để các vị Tỳ khưu tụ hội tham thiền, học kinh điển và giới luật. Phía sau là một thư viện chứa các bộ Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali, Thái, và Anh, và các kinh sách quan trọng khác.
Ở gần chính điện có một trai đường, gồm 2 tầng. Tầng trên dành cho quý Tăng Ni thọ trai và tầng dưới dành cho các sinh hoạt của cư sĩ đến làm công quả. Rãi rác trong rừng là từng tịnh thất nhỏ dành cho các Tỳ khưu, mỗi vị một tịnh thất, với kích thước khoảng 3 x 3 mét, vừa đủ để một giường ngủ và một bàn viết nhỏ. Bên ngoài mỗi tịnh thất là có một đường đi ngắn khoảng 30 mét, có mái che để các Tỳ khưu đi kinh hành.
Ngoài ra, còn có một khu nhà 4 phòng dành cho các giới tử tu học dài hạn, một nhà 3 phòng dành cho nam cư sĩ và một nhà 3 phòng dành cho nữ cư sĩ đến tu học ngắn hạn.
Hiện nay, có nhiều Phật tử tại Tây Úc cũng như từ các nơi khác trên thế giới đến xin ở lại tại tu viện để thọ tám giới, hành thiền, và giúp điều hành tu viện, có thể xem như đó là các cư sĩ hộ tăng, những ưu-bà-di (upasika) và u-bà-tắc (upasaka). Thông thường, đây là những Phật tử thuần thành, có sinh hoạt thường xuyên với Hội Phật giáo Tây Úc và từng tham gia nhiều khóa tu thiền ẩn cư do Hội tổ chức. Sau đó, nếu phát tâm xuất gia thì các vị đó xin trở thành giới tử (anagarika), mặc y phục trắng, cạo tóc, và tuân giữ 8 giới căn bản. Ngoài công phu hành thiền và học tập Phật Pháp căn bản, các vị giới tử nầy cũng được hướng dẫn các nghi thức căn bản và căn bản giới luật.
Sau một năm, vị giới tử xin thọ giới Sa-di (samanera), giữ 10 giới căn bản. Điểm căn bản khác với hàng giới tử là ngoài việc đắp y vàng nâu, các vị Sa-di không được phép cất giữ tiền bạc, không được phép tự lái xe, nhưng vẫn có thể phụ với các giới tử để sửa soạn thức ăn nếu cần thiết. Tuy nhiên, cũng như hàng Tỳ khưu, mỗi vị Sa-di được cấp cho một tịnh thất riêng biệt.
Sau đó một năm, nếu thích hợp, vị Sa-di có thể xin thọ đại giới để trở thành Tỳ khưu (Bhikkhu). Lễ xuất gia Sa-di thường được tổ chức tại Trung tâm Phật giáo Dhammaloka (Pháp Quang) ở thành phố Perth. Tuy nhiên, lễ thọ Đại giới Tỳ khưu thì được tổ chức trong chánh điện của Tu viện Bodhinyana, nơi đã có kết giới Sima, theo đúng nghi thức truyền thống của Phật giáo Nguyên thủy.
Các vị Tỳ khưu tại tu viện không cất giữ tiền bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến chi thu tài chánh đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây Úc quản lý. Trong bối cảnh hiện đại của nước Úc, các vị có giữ thêm một thẻ Medicare do chính phủ cấp để được khám bệnh miễn phí mỗi khi đau bệnh. Cũng xin ghi nhận thêm là mặc dù ở Úc có quy chế bắt buộc mọi công dân phải đi bầu phiếu mỗi khi có các cuộc tuyển cử Quốc hội Liên bang và Tiểu bang, các vị Tỳ khưu đã xin đặc miễn, để không tham gia vào các hoạt động đó.
Thông thường, vị Tỳ khưu thức giấc khoảng 4 giờ sáng và hành thiền trong tịnh thất của mình. Điểm tâm tại trai đường lúc 6:30 giờ, nhưng cũng có vị không dùng điểm tâm. Sau đó là các công tác bảo quản và điều hành tu viện. Bửa ăn chính vào khoảng 10:30 giờ sáng, thức ăn do các cư sĩ mang đến cúng dường hay cho các giới tử nấu. Các vị đều ăn trong bình bát riêng của mình, cùng ngồi chung tại trai đường, hoặc ăn riêng tại tịnh thất.
Phần thời gian còn lại trong ngày là ẩn cư tịnh tu. Hành thiền tại tịnh thất, tự học thêm Phật Pháp tại thư viện, hoặc có những giờ tham vấn riêng với Sư Cả hay các vị sư cao hạ khác. Vào buổi chiều, khoảng 6 giờ, các vị tụ hội tại chánh điện, tụng đọc khóa lễ buổi chiều, sau đó là uống trà, và bàn luận về các vấn đề liên quan đến sự tu học. Mỗi tháng 2 lần, vào buổi tối, các vị Tỳ khưu tụ hội tại chánh điện để đọc tụng giới bổn của tu sĩ, Patimokkha (Ba-la-đề Mộc-xoa).
Thỉnh thoảng, mỗi vị lại tự nhập thất tịnh tu biệt cư, trong khoảng từ 2 tuần lễ đến 1 tháng, không giao tiếp với một người nào khác.
Đôi khi các vị Tỳ khưu cũng được phép tháp tùng theo Sư Cả hoặc các vị niên trưởng về thành phố Perth vào cuối tuần để thuyết pháp, hoặc tham dự các khóa lễ cầu siêu, cầu an tại nhà của cư sĩ nếu có thỉnh mời, hoặc tham dự hướng dẫn các khóa tu thiền dành cho cư sĩ, để quan sát và học tập kinh nghiệm về cách thức thuyết giảng giáo pháp, các khóa nghi lễ phổ thông, cũng như cách giao tiếp với hàng cư sĩ.
Sau khi tu học ở đây được 5 năm, các vị Tỳ khưu được gửi đến các tu viện khác, thường là đến các tu viện trong cùng truyền thống của Ngài Ajahn Chah ở Thái Lan để tu học thêm. Ngoài ra, các vị đó có thể đến tu học ở Miến Điện, Sri Lanka, Tân Tây Lan, và Anh quốc. Mỗi năm vào mùa an cư kiết hạ, có thêm một số Tỳ khưu ở các nơi khác đến tu viện để nhập hạ tịnh tu. Hiện nay, có tất cả là 20 vị Tỳ khưu đang tu học tại tu viện, gồm nhiều thành phần sắc tộc khác nhau: Úc, Anh, Mỹ, Đức, Na Uy, Thái, và kể cả 2 vị Tỳ-khưu gốc Việt. Với nhu cầu tu học ngày càng phát triển, Ngài Ajahn Brahm đã mở thêm một tu viện chi nhánh ở tiểu bang New South Wales, miền đông nước Úc, có tên là Tu viện Santi, cũng tọa lạc trong khung cảnh núi rừng để các Tỳ khưu tịnh tu.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
5. MC……….
2. Ni viện Dhammasara
Để cung ứng nhu cầu tu học của các nữ Phật tử, vào năm 1999, Hội Phật Giáo Tây Úc mua thêm một thửa đất rừng nguyên sinh, rộng khoảng 250 hécta, trong huyện Gidgeganup, 60 kilômét về hướng Đông Bắc thành phố Perth, để thành lập Ni viện Dhammasara (Tinh Pháp). Viện chủ hiện nay là Ni sư Vayama, người Úc, đã từng tu học 10 năm với cố Ni sư Ayya Khema ở Sri Lanka.
Tu viện Dhammasara được thành lập để tạo một môi trường thuận lợi cho việc tu học ẩn cư cho các vị nữ Phật tử, với những điều kiện tương tự như Tu viện Bodhinyana dành cho các nam Phật tử.
Tu viện gồm có một nhà đa dụng, trong đó có một trai đường rộng lớn, một phòng khách, nhà bếp, và 2 phòng ngủ dành cho giới tử. Trong rừng sâu, có 5 tịnh thất biệt lập dành cho các vị Tu nữ tịnh tu. Kiến trúc tịnh thất cũng tương tự như tịnh thất ở Tu viện Bodhinyana: một phòng 3m x 3 m, và một lối đi kinh hành dài 30 m có mái che.
Có thể xem hình ảnh của tu viện tại:
http://zencomp.com/greatwisdom/uni/z-photos/dhammasara/dhammasara.htm
Những nữ Phật tử cư sĩ có thiện tâm muốn tu học thì có thể xin đến thử tu học một thời gian từ 3 đến 6 tháng, mặc y phục trắng, giữ 8 giới. Sau đó, nếu thích hợp, có thể xin làm giới tử, quấn y trắng, giữ 8 giới và cạo tóc. Sau 2 năm, vị nữ giới tử có thể xin xuất gia thành Tu nữ, tuân giữ 10 giới, và đắp y màu nâu. Ngoài 10 giới căn bản, còn có một số điều lệ học giới, dựa theo giới bổn của Tỳ khưu ni. Cũng như các vị Tỳ khưu, các vị Tu nữ ăn cơm trong bình bát, không cất giữ tiền bạc hay sở hữu bất kỳ một hình thức tài sản riêng tư nào, hoàn toàn sống nhờ vào sự cúng dường tứ vật dụng của hàng cư sĩ. Tất cả mọi việc có liên quan đến chi thu tài chánh để điều hành Ni viện đều do các cư sĩ trong Ban Trị Sự của Hội Phật Giáo Tây Úc quản lý.
Chương trình sinh hoạt hằng ngày tại Ni viện Dhammasara cũng tương tự như lịch sinh hoạt của các vị Tỳ khưu tại Tu viện Bodhinyana.
Hiện nay, Tu viện có 3 vị Tu nữ: Ni sư Vayama, Sư cô Nirodha người Úc, và Sư cô Seri người Malaysia, và hai vị giới tử. Mỗi tháng, Ni sư Vayama về thành phố Perth để giảng pháp và hướng dẫn hành thiền cho các cư sĩ hội viên. Theo nội qui của Hội Phật Giáo Tây Úc, Ni sư Vayama cùng với Ngài Ajahn Branhmavamso là hai vị Cố vấn Tinh thần (Spiritual Directors) của Hội.
Ngoài tu viện Bodhinyana và ni viện Dhammasara ở Úc, còn có một số tu viện khác của tăng sĩ Tây phương trong truyền thống Ẩn Lâm của ngài Ajahn Chah, như: tu viện Abhayagiri ở Hoa Kỳ; ở Anh quốc có các tu viện Amaravati, Ratanagiri, Cittaviveka, Santidhamma; ở Thụy Sĩ có tu viện Dhammapala; ở Ý có tu viện Santacittarama; và ở Tân Tây Lan có tu viện Bodhinyanarama. Nguyên tắc sinh hoạt tại các tu viện này cũng tương tự như tu viện tại Tây Úc.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
6. MC……….
C. Xuất gia trong điều kiện nào là thích hợp nhất
Cư sĩ Bình Anson
Nhìn chung, mặc dù môi trường và hoàn cảnh hiện nay trong xã hội Tây Phương có phần khác biệt so với thời Đức Phật còn tại thế, nhưng trong 20 năm qua, Tăng đoàn tại Tây Úc đã nỗ lực gầy dựng một truyền thống tu học và gìn giữ giới luật theo đúng tinh thần của Phật giáo Nguyên thủy. Điều này tùy thuộc nhiều yếu tố, nhưng có lẽ có 2 yếu tố quan trọng nhất: Thứ nhất là sự quyết tâm tu học và hành trì giới luật nghiêm túc của vị lãnh đạo Tăng chúng và các thành viên Tăng đoàn; và thứ hai là sự quyết tâm hỗ trợ và thành tâm học tập, nhiệt tình đóng góp Phật sự tích cực của các vị cư sĩ hộ tăng, hộ tự.
Thêm vào đó, chúng tôi nghĩ rằng để Phật giáo được quảng bá và thật sự bám rễ tại môt quốc gia Âu Mỹ, các tu viện, tự viện phải được mở rộng, vượt qua các rào cản về văn hóa, sắc tộc, để đón nhận người dân bản địa. Hoạt động của Hội Phật giáo Tây Úc và hai Tu viện Bodhinyana và Dhammasara có thể xem như là một thí dụ điển hình. Đây không phải là một hội Phật giáo dành riêng cho cộng đồng người Việt, hay người Hoa, người Thái, người Miến, v.v... mà là hội Phật giáo của người Úc tại xứ Úc. Các thành viên có thể đến từ nhiều nguồn gốc văn hóa khác nhau, nhưng tất cả đều dùng tiếng Anh là ngôn ngữ chính, và các hình thức văn hóa phong tục lễ nghi rườm rà không cần thiết cần phải được gạn lọc, để chỉ giữ lại phần gốc tinh túy nhất của đạo Phật. Các vị tu sĩ giảng sư hoặc là người bản địa, hoặc là người có thể thuyết giảng thông thạo bằng tiếng bản xứ (ở đây là tiếng Anh). Các vị này cũng cần phải qua một quá trình tu học nhiều năm tại một quốc gia Phật giáo ở châu Á (Thái Lan, Sri Lanka, Miến Điện) để có thể thấm nhuần và thông hiểu tường tận các sinh hoạt và nghi thức tinh yếu của Phật Giáo. Các sinh hoạt của Hội cũng cần có mục đích cung ứng nhu cầu tâm linh của giới trẻ, giảng giải Phật Pháp bằng những ngôn từ giản dị, hiện đại, thuận lý và mạch lạc, hướng dẫn các khóa thiền thư dãn tâm trí, và khuyến khích hội viên tích cực tham gia các công tác thiện nguyện, cứu trợ xã hội, v.v...
Kính mời MC kế tiếp
7. MC đọc tiếp ………
Đời sống xuất gia là một đời sống thanh cao, lý tưởng. Những người cư sĩ tại gia chúng ta cần phải có nhiều đóng góp - thì giờ, công sức, lẫn tiền bạc - để tạo điều kiện thuận lợi cho những vị nào thành tâm tu học, nam tu sĩ lẫn nữ tu sĩ. Qua những gì chúng tôi quan sát được tại Tây Úc, chúng ta cần khuyến khích các giới trẻ tham gia Phật sự, nghe thuyết pháp, và hành thiền. Nếu đạo hữu nào phát tâm xuất gia thì cũng cần phải kiên nhẫn, phải thử qua nhiều giai đoạn. Đầu tiên là thường xuyên tham gia các khóa học Phật pháp phổ thông, các khóa thiền căn bản, và cũng nên cố gắng học tụng đọc các bài kinh căn bản. Đời sống riêng tư tại thế cũng cần giản dị hóa, giảm thiểu mọi ràng buộc, mọi nhu cầu không cần thiết. Sau đó, nên thu xếp thì giờ để đến tu học ngắn hạn tại tu viện, để làm quen với lối sống tại đó. Dần dần, nếu cảm thấy thích hợp thì có thể tiến đến giai đoạn lâu dài hơn, để tu học như là giới tử, rồi sa-di, và tỳ khưu hoặc là tu nữ.
Với những ai vì già yếu, hay bệnh tật, không thể sống được tại tu viện, hoặc không thể tiếp cận được một tu viện thích hợp, thì vẫn có thể tu ẩn cư tại nhà, giữ 8 giới. Tuy rằng phương cách nầy có nhiều hạn chế, nhưng theo thiển ý, cũng là một phương cách tốt, một phương cách tâm lý xuất gia, cũng có thể đưa đến nhiều kết quả tốt lành và cao quý cho đời sống tâm linh.
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S
(Chư Tăng thảo luận)
8. MC……….
Thơ
Nào Phải
Ta bỏ đi, mà chưa từng bỏ cuộc
Về Tây Thiên đâu chỉ một lối mòn
Quên phố xá, ta lên ngàn hái thuốc
Gióng chuông chiều trên đỉnh đá chon von
Hỏi mượn nhau một chút tình rêu cỏ
Về làm thơ tiêu sái những đêm khuya
Và đâu đấy những buồn vui nho nhỏ
Đã hóa thân từng chiếc lá chia lìa
Mai ta đi, với chốn về mù mịt
Nẻo tà dương, đời mạt pháp lâu rồi
Nhớ người xưa, ta về ngồi diện bích
Trăng trên đầu...theo tuế nguyệt đầy vơi
Thơ Toại Khanh
Chúng con cung thỉnh TT G.Đ/ TT T.S (Chư Tăng thảo luận)
9. MC……….
TIN TỨC
No. 0564 NEW (Tinh Tấn dịch)
Chúng ta phải phục hồi ngôn ngữ Pali trong trường học
Bản tin đăng tải trên trang Web Dailynews.lk, ngày 5 tháng 10, 2005.
Được viết bởi ông Lionel Wijesiri
Trong suốt đầu thập niên 1960, khi tôi là một học sinh trung học đệ nhị cấp, tôi có sự may mắn tốt lành là được học ngôn ngữ Pali như một đề án. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong những Chủ đề của chúng tôi. Chúng tôi được các thầy của chúng tôi khuyến khích để tham khảo sâu về Kinh Pháp Cú. Kết quả là một số rất lớn các học giả Phật giáo ra đời trong thế hệ của chúng tôi.
Một thanh thiếu niên Phật tử biết gì về ngôn ngữ Pali ngày nay - nguồn gốc, lịch sử, sự thích đáng của ngôn ngữ này đối với Phật giáo như thế nào? Chúng tôi nên giới thiệu ngôn ngữ Pali một cách chính xác từ giai đoạn đầu, và sự gia tăng cách dùng ngôn ngữ này nên được phát triển dần dần để sự hấp dẫn về ngôn ngữ của Đức Phật được tiến triển.
Các nguồn gốc của ngôn ngữ Pali, cũng như nhiều ngôn ngữ khác, bị mất đi do vô thường của thời gian. Qua nhiều thế kỷ, Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada) công nhận rằng ngôn ngữ Pali là ngôn ngữ mà Đức Phật dùng để thuyết giảng, và do đó được đồng nghĩa với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà (Magadhi), là ngôn ngữ của vương quốc Bắc Ân của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) nơi Đức Phật đã trú ngụ và giảng đạo. Sự đồng nhất ngôn ngữ Pali với ngôn ngữ Ma Kiệt Đà xuất hiện rất sớm trong văn học Phật Giáo Nguyên Thủy – có thể sớm như Thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.
Tam Tạng kinh điển, có lẽ được bảo tồn trong ngôn ngữ nguyên thủy của Đức Phật (cách nói người miền Đông Bắc Ấn), đương đầu với ngôn ngữ Pali ở vài điểm trong lịch sử - hầu như suốt thời kỳ ngôn ngữ Pali hiện diện khắp nơi ở Bắc Ấn – và đã được ghi chép bằng ngôn ngữ này.
Dù khởi nguyên như thế nào, ngôn ngữ Pali có vài quan điểm trở thành ngôn ngữ thường duy trì và đưa vào Tam Tạng. Ít nhất trong thế kỷ thứ nhất sau khi Đức Phật Niết Bàn, các lời dạy của Đức Phật không được viết xuống, và vẫn giữ một truyền thống khẩu truyền. Lời dạy này được ghi chép tại Tích Lan có lẽ đúng nhất suốt thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, vào triều đại của Vua Vattagamani. Văn bản Pali này đã được viết trên lá bối, như một sự cố gắng duy trì để đối lại sự đe dọa đến tầng lớp Phật giáo – gần nhất, một cuộc chiến tranh xâm lấn từ Nam Ấn.
Không rõ khi nào thì ngôn ngữ Pali không còn là nguồn gốc ngôn ngữ, và trở thành chuyển tiếp trong lãnh vực tôn giáo. Ngay cả sau khi ngôn ngữ Pali bị chết trong thành phần còn lại của xã hội, Pali lại tiếp tục được xử dụng trong chùa và tu viện, không những để bảo tồn văn bản, mà còn để sọan thảo lời diễn giải, và cho phép giao tiếp giữa Chư Tăng Nguyên Thủy từ các quốc gia khác nhau.
Trong các quốc gia Nguyên thủy khác nhau nơi mà ngôn ngữ Pali được nói, viết trong nguyên bản địa phương, và thường được phát âm hay ngâm kệ tùy theo sự khác nhau của ngôn ngữ địa phương.
Hai thời kỳ chính của văn học Pali được các nhà học giả Pali đồng nhất. Đầu tiên, sự nhất trí về việc ghi chép Tam tạng vào khoảng thế kỷ thứ nhất. Thời kỳ thứ hai là thế kỷ thứ 5, sự tăng trưởng của nền văn học Sankrit gây nên sự phục hưng của ngôn ngữ Pali đầu tiên, bắt đầu hầu như đơn độc của vị Cao Tăng Buddhaghosa và chư đệ tử của Ngài tại tu viện Mahavihara.
Có lẽ thế kỷ thứ 20 nhìn thấy sự hồi sinh lần cuối của ngôn ngữ Pali, mặc dù nguồn gốc của sự biến động này nằm vào thế kỷ thứ 19. Sự quan tâm về ngôn ngữ Pali từ phía Tây, biểu hiện nhất do Hội Văn học Pali (Pali Text Society) vào năm 1881 để xúc tiến nền văn học Pali trong thế giới bên ngoài Châu Á.
Gia tăng đại chúng quan tâm đến Phật giáo về phía Tây giúp vài bản dịch mới đầu tiên của văn bản Pali một cách nhanh chóng, cũng như dịch thuật về các công trình chưa được khảo cứu trước đây.
(tinhtan luoc dich)
___________________________________________________________
10. MC……….
No. 0591 NEW(Hạt Cát dịch)
Thống Ðốc Kashmir tán dương nét đặc thù vẻ vang liên quan đến Phật Giáo của Kashmir, Ấn Ðộ.
Bản tin đăng tải trên trang Web Greater Kashmir ngày 25 tháng 10, 2005
Patna, Oct 25: Thống đốc tiểu bang Jammu và Kasmir, Ấn Ðộ, Tướng hồi hưu SK Sinha ngày hôm nay đã diễn tả sự lạc quan về ánh bình minh của hòa bình tại Jammu và Kashmir trong thời gian không lâu sắp tới và tình trạng bình thường sẽ trở lại rất nhanh trong khu vực Thung Lũng từng là một đại trung tâm văn hóa và triết học Phật Giáo.
Trong bài diễn văn đọc trước các phái đoàn đại biểu Phật Giáo từ nhiều nơi trên thế giới tại Ratnagiri Hill, Rajgir ở gần đây sáng nay trong lễ kỷ niệm lần thứ 36 chu niên Tháp Wishwa Shanti, ngài Thống đốc đã nhắc lại bối cảnh lịch sử của thành phố Srinaga với sự quan hệ đến kỷ nguyên Phật Giáo.
Ông nói Thung Lũng Kashmir thấm đẫm lịch sử Phật Giáo với vô số tu viện phát triển nơi đây. Thung Lũng Kashmir, nổi danh là Thiên Ðường Ðịa Cầu đã trở thành Thung Lũng Tu Viện. Thành phố Srinaga được xây dựng bởi Ðại Ðế A Dục, và vào buổi sơ khai của kỷ nguyên Thiên Chúa, Ðức Vua Kanishka, một quân vương khác cai trị một vương quốc rộng lớn từ Peshawa, kể cả Kashmir.
Cũng trong bài diễn văn, Tướng Sinha đề cập đến một sự thật thú vị trong lịch sử, không được nhiều người biết đến, đó là chuyện Ðức Vua Kanishka muốn có được học giả Phật Giáo lừng danh nhất vào thời đại ấy, Ashwaghosh, tức là Ngài Mã Minh, đang sinh sống ở Pataliputra, trong triều đình của Ngài. Ashwaghost từ chối rời khỏi Pataliputra và Vua Kanishka yêu cầu Ðức Vua xứ Magadha phải gửi Ashwaghosh đến cho ông, Vua xứ Magadha từ chối, Vua Kanishka cử binh chinh phạt tiến đến Pataliputra dùng vũ lực mang Ashwaghosh về Peshawar.
Tướng Sinha nói rằng chiến tranh xâm lược từng xảy ra trong lịch sử vì cướp bóc, chiếm đọat, khủng bố, lợi dụng và ngay cả bàn tay của một mỹ nhân nhưng chưa từng có một ví dụ nào khác trong lịch sử về một cuộc chiến tranh xâm lược được thực hiện vì đòi hỏi một nhà thông thái.
Ông Thống Ðốc nói tiếp rằng học giả Ashwaghosh trở thành ngọn đuốc sáng chói trong triều đình của Ðức Vua Kanishka và đã tổ chức Cuộc Kết Tập Kinh Tạng nổi tiếng lần thứ tư tại Srinaga vào Thế Kỷ Thứ Nhất sau Tây Lịch. Ðây là một trong những cuộc tập hợp các học giả Phật Giáo lớn lao nhất vào thời kỳ ấy. Phật giáo đã lan truyền từ đó đến Trung Á, Trung Hoa và Tây Tạng. Ông nói dân số Phật Giáo và tu viện Phật Giáo đông đảo nhất tại Ấn Ðộ là ở vùng Ladakh. “Ðây là một đặc ân cho tôi khi được đến đây từ Kashmir và mang đến cho Hội Phật Giáo Rajgir hai bức phóng ảnh đóng khung và một bộ sưu tập ảnh”.
“Hai bức phóng ảnh là hình pho tượng Phật bằng đá tại Molbek thuộc Ladakh. Pho tượng Phật bằng đá này hiện nay là pho tượng lớn nhất thế giới sau khi các pho tượng ở Bamyan bị bọn quá khích Talilban phá hủy, và bức kia là hình ảnh mợt khu vực thuộc Srinaga nơi Ðức Vua A Dục xây dựng thành phố Srinaga. Một ngôi chùa cổ Phật giáo được xây dựng ở đó vẫn còn được bảo tồn tốt đẹp. Ðường nét ngôi chùa rất mỹ thuật. Bộ sưu tập ảnh gồm hình ảnh các tác phẩm nghệ thuật tìm thấy tại Thung Lũng Kasmir”. Ông Thống Ðốc nói thêm như vậy.
____________________________________________________
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học Phần Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con ... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy những lời pháp nhũ hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
kính thưa quý đạo hữu,
ngày mai chúng ta sẽ tiếp tục Đề Án Trong Tháng: Truyền Thống Tăng Già với chủ đề Tu sĩ và thế giới hôm hay với sự điều hợp chương trình của chư Tôn Đức , các MC và ops của room DP. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca MâuNi Phật
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật