<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://www.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d12421254\x26blogName\x3dB%C3%A0i+%C4%90%E1%BB%8Dc+c%E1%BB%A7a+MC\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://baidocmc.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://baidocmc.blogspot.com/\x26vt\x3d9116706110527376988', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe" }); } }); </script>

Thứ Tư, tháng 6 07, 2006

Bài Đọc ngày thứ 4 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
Con .............. (............. điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 07 tháng 06 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là lớp Lịch Sử Phật Giáo chúng ta sẽ học bài ẤN ĐỘ và PHẬT GIÁO (tt) do TT Giác Đẳng hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC của phần I: .................... (...... điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:

"2500 YEARS OF BUDDHISM" - 2500 LỊCH SỬ PHẬT GIÁO

---o0o---

Chương I: India And Buddhism -

Ấn Độ và Phật giáo (tt)


Phần I

Tác giả P. V. Bapat
Việt dịch Hữu Song Nguyễn Đức Tư

______________

II. Nội dung chính


Một đặc điểm đáng nói khác là đạo Phật bác bỏ mọi sự tự cho mình thuộc dòng dõi cao sang như kiểu tự hào của một Bà la môn. Đạo Phật bác bỏ tất cả mọi sự phân biệt trong xã hội giữa người với người và nói rằng chính cái nghiệp, tức là những vịêc làm của một người, mới quyết định sự danh giá hay thấp hèn của người đó. Trong các kinh thư Phật giáo, một số kể lại câu chuyện Đức Phật (hay các môn đệ của Ngài) có cuộc tranh luận nổi tiếng với các Bà la môn, cuối cùng đã khiến những người kia phải theo cách nghĩ của mình. Như kinh Assalayana-sutta và Vajrasuci đã minh họa rõ quan điểm của Đức Phật. Vị trí của người Phật tử trong vấn đề này đã được đánh giá đúng và công nhận trong các kinh Mahabharata và Bhagavata. Việc nhấn mạnh đến sự bình đẳng về địa vị xã hội, căn cứ trên việc làm của một người chứ không phải trên dòng dõi của họ, là một phần quan trọng trong kinh sách của các tác giả thời trung cổ như Ramanada, Chaitanya, Kabir, Eknath và những người khác (thế kỷ 14-17). Những người đi theo Đức Phật trước đây đều không phải thuộc giai cấp giàu sang mà còn bao gồm cả những giai cấp hạ lưu cùng khổ như thợ hớt tóc, phu quét rác hay là chandala. Trong số các vị thánh thời Trung cổ thì có Tukaram là một tiện dân, Rohidas là một thợ sửa giày và Sena là một thợ hớt tóc. Tương tự, không có sự phân biệt giai cấp trong một số bộ phái như Lingaya, Mahanubhava và Ramanandis.

Một đặc điểm khác có ý nghĩa to lớn về mặt xã hội học trong Phật giáo và tôn giáo này đón nhận cả nam giới lẫn nữ giới. Theo lời kể lại thì Đức Phật lúc đầu không quyết định thu nhận nữ giới và Tăng đoàn. Nhưng khi tôn giả A-nan-đà (Ananda) nói với Ngài để xin cho bà Maha Ba-xa-ba-đề (Mahapajapati) gia nhập Tăng đoàn thì cuối cùng Ngài đồng ý, dù có e ngại cho hậu quả của quyết định này. Đồng thời với việc chấp thuận đó, Ngài cũng đưa ra một số điều kiện có ý hạn chế nữ giới so với nam giới. Chúng ta không nên xét đoán Ngài theo các tiêu chuẩn của của thời đại chúng ta, vào thời ấy, đây đã là một bước tiến dài. Trong đời sống tôn giáo, người phụ nữ cũng có quyền đạt đến quả vị cao nhất, những A-la-hán chẳng hạn, vì người ta đã thừa nhận rằng nữ giới cũng có thể thông thái và hiểu biết như nam giới vậy. Về điểm này có thể kể ra danh tánh các tôn ni như Khema, Patacara và Dhammadinna. Bên ngoài Tăng đoàn cũng có những nữ cư sĩ như Sujita, Visakha và Samavati, tất cả đều đã đạt đến những địa vị cao trọng trong nhiều lĩnh vực. Thậm chí cả những cô gái điếm như Amrapali cũng không bị tước bỏ cơ hội để đi theo con đường tu hành. Trong Trưởng Lão ni kệ (Therigatha) cũng thế, những người phụ nữ như Uppalavanna, Subha, Kisa, Gautami và Soma đã được nhắc đến như những con người từ bỏ cuộc sống khổ đau thường tình để chấp nhận một cuộc đời hết lòng vì đạo nhằm vượt qua sự đau khổ trần tục và họ đều đã thành đạt trên đường tu hành.

Chúng con cung thỉnh TT Giác Đẳng từ bi thuyết giảng bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Trung Bộ Kinh do TT Giác Đẳng giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các Ops MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng..

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)

Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.