<body><script type="text/javascript"> function setAttributeOnload(object, attribute, val) { if(window.addEventListener) { window.addEventListener('load', function(){ object[attribute] = val; }, false); } else { window.attachEvent('onload', function(){ object[attribute] = val; }); } } </script> <div id="navbar-iframe-container"></div> <script type="text/javascript" src="https://apis.google.com/js/platform.js"></script> <script type="text/javascript"> gapi.load("gapi.iframes:gapi.iframes.style.bubble", function() { if (gapi.iframes && gapi.iframes.getContext) { gapi.iframes.getContext().openChild({ url: 'https://draft.blogger.com/navbar.g?targetBlogID\x3d12421254\x26blogName\x3dB%C3%A0i+%C4%90%E1%BB%8Dc+c%E1%BB%A7a+MC\x26publishMode\x3dPUBLISH_MODE_BLOGSPOT\x26navbarType\x3dBLUE\x26layoutType\x3dCLASSIC\x26searchRoot\x3dhttps://baidocmc.blogspot.com/search\x26blogLocale\x3dvi_VN\x26v\x3d2\x26homepageUrl\x3dhttp://baidocmc.blogspot.com/\x26vt\x3d9116706110527376988', where: document.getElementById("navbar-iframe-container"), id: "navbar-iframe" }); } }); </script>

Thứ Hai, tháng 3 20, 2006

Bài Đọc ngày thứ 2 của MC

Phần I: Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng

Namo Buddhaya
Con ............. (..... điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 20 tháng 03 năm 2006 Phật lịch 2549. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày. giờ VN nhằm 8:00 đến 10:30 tối, giờ Houston 7:00 đến 9:30 sáng, giờ NY từ 8:00 đến 10:30 sáng, giờ Cali 5:00 đến 7:30 sáng, giờ Paris 2:00 đến 4:30 chiều, giờ Sydney 12:00 tối đến 2:30 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là lớp Thiền Học chúng ta sẽ học bài Thanh tịnh đạo: Phần Thứ Ba: MÔ TẢ ÐỊNH - CHỌN ÐỀ MỤC THIỀN QUÁN (tiếp theo) (Kammatthāna-gahana-niddesa) do TT Tuệ Siêu hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hanh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC của phần I: .................... (...... điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:


Lớp Thiền Học

THANH TỊNH ÐẠO LUẬN TOÁT YẾU

(Trích dẫn tài liệu do TT Thích Phước Sơn biên soạn)

PHẦN THỨ HAI - ÐỊNH


--ooOoo--

CHƯƠNG III

MÔ TẢ ÐỊNH -

CHỌN ÐỀ MỤC THIỀN QUÁN
(Tiếp Theo)

(Kammatthāna-gahana-niddesa)

Giảng Sư: TT Tuệ Siêu

II. Nội dung chính


1. KHẢO SÁT CÁ TÍNH

Ðể chọn đề tài tu tập thích hợp cho từng đối tượng, các luận sư thường chia thành 6 loại. Cá tính như sau: Cá tính nặng về tham, nặng về sân, về si, về tín, về tuệ và tư duy. Lại còn có những mối tương quan giữa các đức tính trên. Chẳng hạn, người thiên về đức tin thường đi đôi với người nặng về tham. Tính tham không từ bỏ cái gì có hại, còn đức tin thì không bỏ cái gì có lợi. Người thiên về trí tuệ thường đi đôi với tánh sân. Tính sân sinh khởi bằng cách bu?c tội chúng sinh, trong khi tuệ sinh khởi bằng cách buộc tội các hành. Người thiên về tư duy thường đi đôi với tính si, và đặc tính của tầm cũng gần với đặc tính của si. Tính si không an là do bối rối, tầm không an là do suy nghĩ nhiều. Nếu phân tích thêm, ta sẽ thấy dục và mạn đều liên hệ mật thiết với tham, và kiến chấp hay tà kiến thì bắt nguồn từ si.

Phần lớn những đức tính mà chúng ta hiện có thường bắt nguồn từ tiền kiếp. Chẳng hạn, người nhiều tham có thể đời trước họ đã làm nhiều việc mà họ ưa thích; người nhiều sân có thể đời trước thường hay đâm chém hay làm những việc tàn bạo khác; còn một người nhiều si, có lẽ trước kia đã từng uống nhiều rượu, ít chú ý đến học vấn. Ðó là quan điểm lấy nguồn gốc từ kiếp trước.

Hơn nữa, quan điểm nầy còn cho rằng 4 đại có ảnh hưởng đến tâm tính của mỗi người. Chẳng hạn một người có tánh si là do hỏa đại và địa đại tăng thịnh. Người có nhiều sân là do thủy đại và phong đại tăng thịnh. Nhưng người nhiều tham là vì 4 đại quân bình. Về khí chất, kẻ nặng về tham thì dư đàm, người nặng về si thì dư phong. Tuy nhiên, những quan điểm vừa nêu cũng không hoàn toàn đúng hẳn.

Nhưng muốn nhận xét một người thiên về tính nào nhiều hơn, luận chủ căn cứ vào hành vi, cử chỉ, ngôn ngữ, nhận thức và tâm trạng để xếp loại.

Về hành vi, cử chỉ. Người có tính tham khi đi tự nhiên, bước chân cẩn thận, tự nhiên và khoan thai. Người có tính sân, bước đi hấp tấp, đặt chân xuống và dở chân lên đều nhanh nhẹn. Người có tính si, dáng đi bối rối, để chân xuống và nhấc chân lên một cách do dự.

Khi làm việc, người tham làm việc một cách từ tốn, cẩn thận; người sân làm việc một cách căng thẳng; người si làm việc một cách vụng về. Khi ăn, người tham thích ăn thực phẩm ngọt ngào, béo bổ; người sân ưa ăn đồ dai và chua; người si không có sự lựa chọn nhất định. Khi nhìn sự vật, người tham chú ý những gì mình thích, kể cả những chi tiết vụn vặt, mà không quan tâm nhiều đến những khuyết điểm. Người sân khi thấy một sắc pháp hơi khó ưa, thường xoi mói các khuyết điểm nhỏ, mà bỏ qua những đức tính khác; người si không có những chủ kiến nhất định, khen chê theo ý của người khác.

Về tâm trạng: Người tham thường có tâm trạng lừa dối, gian lận, kiêu mạn, ác dục, bất mãn, làm đỏm, khoe khoang. Người sân thường có tâm trạng giận dữ, thù hằn, phỉ báng, thống trị, ganh tị, biển lận. Người si thường có tâm trạng đờ đẫn, dao động, lo âu, bất định, bám víu không chịu xả bỏ. Người có tín tâm, tính tình rộng rãi, mong muốn gặp những bậc thánh, mong nghe diệu pháp, vui vẻ, hồn nhiên, thành thực tin tưởng những gì gợi lên niềm tin. Người có tánh tuệ, ngoan hiền, biết vừa đủ trong ẩm thực, chánh niệm tỉnh giác, ưa sự thức tỉnh, có ý thức tôn trọng những nguyên tắc. Người có tính tư duy, thích nói, dễ hòa mình, không ham thích làm việc phước thiện, khó hoàn tất được những công việc đã làm.

Tuy nhiên, những chỉ dẫn trên về cách nhận dạng tính tình không phải được lưu truyền trong kinh hay luận, mà chỉ được diễn tả theo quan điểm của các bậc thầy, do đó, không thể xem là một chân lý hoàn hảo. Vì ngay cả một người có tính tham, hay sân cũng không dễ gì đánh giá chính xác được tính tình của họ, nếu ta chưa thực sự giác ngộ. Vả lại, ít có người nào chỉ thuần nhất tham hay sân, mà thường là xen lẫn nhiều đức tính khác nhau, và tùy theo mỗi cảnh ngộ khác nhau.

2. PHÂN LOẠI ÐỀ MỤC

Tiếp theo sự khảo sát cá tính là sự lựa chọn những đề mục thích hợp để tu tập. Luận chủ đã khái quát các đề mục ấy thành 40 loại: Mười biến xứ, mười bất tịnh, mười chỗ tưởng niệm, bốn phạm trú, bốn vô sắc xứ, một tưởng và một phân tích.

Mười biến xứ: đất, nuớc, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, ánh sáng, hư không.

Mười bất tịnh: Thây phình trướng, thây bầm xanh, thây máu mủ, thây nứt nẻ, thây thú ăn, thây phân lìa, thây rã rời, thây chảy máu, thây sâu đục, bộ xương.

Mười chỗ tưởng niệm: niệm Phật, niệm pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên, niệm Chết, niệm Thân, niệm hơi thở và niệm diệt.

Bốn phạm trú: Từ, Bi, Hỉ, Xả.

Bốn vô sắc: Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu, Phi tưởng phi phi tưởng.

Một tưởng: tưởng đồ ăn bất tịnh.

Một phân tích: phân tích 4 đại chủng.

Trong 40 đề mục trên, thì 22 đề mục có tướng trạng bên ngoài, đó là: 10 biến xứ, 10 bất tịnh của tử thi, niệm thân và niệm hơi thở. Mặt khác, có 12 đề mục lấy tự tính làm đối tượng, đó là: 8 trong 10 tưởng niệm - trừ niệm thân và niệm hơi thở, tưởng thức ăn bất tịnh, phân tích 4 đại chủng, Thức vô biên xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Còn những đề mục khác không thể phân loại như thế được.

Xét về những duyên (điều kiện) làm cơ sở để chứng đắc các thiền, thì 9 biến xứ - trừ biến xứ hư không - là những điều kiện để chứng Vô sắc xứ. Mười biến xứ là những điều kiện để chứng đắc các loại thắng trí (thần thông). Ba phạm trú (vô lượng tâm) đầu là điều kiện để chứng phạm trú thứ tư. Mỗi vô sắc cấp dưới là điều kiện cho vô sắc trên nó một bậc. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là điều kiện để chứng diệt thọ tưởng định. Tất cả là điều kiện phát sinh trí tuệ để sống an lạc trong những sinh thú tốt đẹp.

3. ÐỀ MỤC THÍCH HỢP CHO CÁC CÁ TÍNH

Mười phép quán bất tịnh của tử thi và niệm thân là những đề mục thích hợp cho người nhiều tham dục. Bốn phạm trú và bốn biến xứ về màu sắc là những đề mục thích hợp cho người hay sân. Niệm hơi thở thích hợp cho người có tính si và người có tính tư duy. Sáu niệm đầu trong 10 tưởng niệm thích hợp cho những người có tịnh tín. Niệm chết, niệm diệt, phân tích bốn đại, tưởng thức ăn bất tịnh, là bốn đề mục thích hợp cho những người có tính tuệ. Những biến xứ còn lại và những vô sắc thích hợp cho mọi loại tính tình. Và bất cứ biến xứ nào cũng cần có giới hạn cho người có tính tư duy và vô hạn cho người có tính si.

Những cách phân loại trên là nói theo thể thức đối trị trực tiếp và hoàn toàn thích hợp, nhưng kỳ thực không có pháp tu nào mà không trừ bỏ được tham, hỗ trợ được tín v.v... Nói một cách khái quát thì: "Tu bất tịnh quán để trừ tham dục; tu từ bi quán để từ bỏ sân hận; niệm hơi thở để từ bỏ tầm tư duy; tưởng vô thường để từ bỏ ngã mạn" (A. IV, 358)

Khi một hành giả đã quyết tâm hạ thủ công phu, liều bỏ tính mệnh thì không có một nỗi sợ hãi nào hay một chướng ngại nào là không vượt qua được.

Chúng con cung thỉnh TT Tuệ Siêu thuyết giảng bài học trong ngày. Namo Buddhaya.

________________________________________

Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .............. thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi .Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Phật Pháp Phổ Thông do SC Liễu Pháp giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các OpsMC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, ( đóng room)

Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.