Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
MC1: Con ................ (............ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 10 tháng 07 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.
Kính thưa quý vị hôm nay là lớp Lịch Sử Phật Giáo chúng ta sẽ học bài NGUỒN GỐC ĐẠO PHẬT - PHONG TỤC TẾ LỄ (tt) do TT Giác Đẳng hướng dẫn. Sau đó là phần câu hỏi trắc nghiệm, chương trình tiếp tục với phần Pháp đàm, chúng ta sẽ nghe chư Tôn Ðức giảng giải đề tài thảo luận, các câu hỏi và kết thúc với bản tin Phật Giáo.
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya
(Đại Đức Minh Hạnh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________
(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Bài Học hôm nay:
"2500 YEARS OF BUDDHISM" - 2500 LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
---o0o---
Chương II: Origin Of Buddhism - Nguồn gốc Đạo Phật
Phong Tục Tế Lễ (Cult Of Sacrifice) (tt)
Việt dịch Hữu Song Nguyễn Đức Tư
____________
II. Nội dung chính
II - 5: Rõ ràng là cuộc sống khổ hạnh không chỉ dành cho những người Bà la môn mà còn cho những giai cấp trí thức khác thời đó. Dù sao đi nữa, cuộc sống này cùng mở ra cho các Kshatriyas, giai cấp quân nhân, đây là điều được thấy rõ qua địa vị đặc biệt mà nhà thông thái hoàng gia Janaka chiếm giữ trong lĩnh vực tư duy triết học. Các nhà thông thái Kshatriya thường đảm nhiệm việc dạy dỗ cho các Bà la môn trong một số lĩnh vực mà họ sở trường.
II - 6: Mặc dù văn hệ Vệ Đà có ghi lại tên tuổi của một số nhà tư tưởng thuộc phái khổ hạnh, nhưng hẳn là còn có nhiều nhà tư tưởng nữa ngoài con số ít ỏi này. Không dễ gì khẳng định là không có những thành phần không phải Aryan trong số những người đi theo họ, nhưng không có cơ sở để không tin rằng những người không phải Aryan lại cũng đã có ảnh hưởng trong tư tưởng người Aryan. Chẳng hạn, theo một số người thì các nhà tư tưởng như Gosala từng là đại diện cho những tư tưởng đặc trưng của nền văn hóa không phải Aryan.
(MC2: ............... / ...............)
II - 7: Quay sang văn hệ không thuộc Vệ Đà, người ta gặp phải những từ như Sa môn (sramanah, du tăng khất sĩ) trái ngược với Bà la môn. Có 5 loại Sa môn đã được đề cập đến, trong đó có Nigantha và Ajivika. Dường như một số loại Sa môn đã được nuôi dưỡng bằng văn hóa Bà la môn nhưng sau đó được tách ra. Văn hệ Phật giáo và Kỳ Na giáo (Jainism) thường hay nhắc đến các bộ phái này. Tuy nhiên, rõ ràng là các Sa môn này đã kế thừa ý tưởng của văn hệ Vệ Đà và thường lấy cảm hứng từ đây.
II - 8: Giáo lý của những hệ phái đi lang thang này có thể bắt nguồn từ văn hệ Vệ Đà, nhất là từ trong Upanishads (Áo Nghĩa Thư). Thực ra, sự tìm kiếm mục đích cuối cùng hay tối hậu đã có từ trong Nasadiya-sukta nổi tiếng của Rigveda; ý tưởng về một thế giới cao hơn và hạnh phúc hơn được tìm thấy trong Visnu-sukta, còn khái niệm luân hồi đầu thai, người chết trở lại cõi đời thì cũng xuất hiện lâu đời như bản Yamasukta hay Bài ca Tán tụng Tổ tiên. Sự đau khổ cố hữu của cuộc đời và khái niệm về sự bất tử mà người ta không thể có được nhờ tiền của thế gian, thường nhắc đến trong Upanishads. Trong văn hệ Upanishads thường gặp những sự tư duy về mục tiêu tối hậu của vũ trụ.
(MC3: ............... / ...............)
II - 9: Lý thuyết về Chuỗi Nhân Quả theo cách hiểu của đạo Phật rõ ràng là kết quả của những sự suy ngẫm trên đây. Thực vậy, cả đến chủ thuyết rất phát triển của trường phái Madhyamika (Trung Luận tông) cho rằng chân lý cao nhất vượt lên trên bốn quan điểm cực đoan catuskotivinirmukta, cũng được trình bày bằng những ngôn ngữ gần giống như thế trong đoạn cuối của Mandukya Upanishads. Đương nhiên là các ý tưởng triết lý và giáo lý đã không đột ngột nảy sinh mà bắt nguồn từ những ý tưởng lâu đời.
II - 10: Tuy nhiên, trong văn hệ tiền Phật giáo không có một biểu lộ rõ rệt nào của nguyên tắc vô ngã (anatmavada). Trong các Upanishads, đặc biệt là trong Brahadaranyaka, có sự đề cập mơ hồ rằng thân thể con người gồm bốn hay năm yếu tố tạo thành, đến khi chết đi thì thân thể lại tan ra trở thành các yếu tố ấy, và sau cái chết thì chẳng còn có yếu tố ý thức (samjna). Tuy nhiên, lý thuyết này đúng ra không thể nói là nguồn cội của lý thuyết vô ngã (anatma hoặc anatta) của đạo Phật, nhiều lắm chỉ có thể nói rằng đây là cội rễ của những ý niệm cho rằng mọi vật trên trần thế đều là tạm bợ và không có sự luân hồi. Sự chấp nhận rằng thân xác con người là do nhiều yếu tố tạo nên và cuối cùng sẽ lại tan ra thành những yếu tố ấy cho ta thấy rằng cái gọi là ý thức (samjna) là cái không có thật bởi nó chẳng còn lại gì sau khi người ta chết.
________________________________________
Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Phật Pháp Phổ Thông do SC Liễu Pháp giảng giải, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC trong room Diệu Pháp. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya
mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)
Namo Buddhaya
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Kính chào tạm biệt tất cả, xin hẹn ngày mai vào giờ thường lệ. Xin được phép đóng room trong vài giây tới. Namo Buddhaya.